Đối với Đảng Cộng sản Việt Nam,
trong các kỳ đại hội Đảng gần đây, vấn đề kiên định các nguyên tắc xây
dựng Đảng là quá trình phát triển nhận thức lý luận của Đảng trên cơ sở
tổng kết thực tiễn của 36 năm đổi mới theo hướng mở rộng và bao quát hơn
những nội dung cần phải kiên định. Kiên định nguyên tắc là cơ sở để
chúng ta phân biệt đối tượng, đối tác trong cuộc đấu tranh bảo vệ nền
tảng tư tưởng của Đảng.
Đại hội lần thứ XIII, Đảng ta lần đầu tiên khẳng định: Kiên định các nguyên tắc xây dựng Đảng, bởi những lý do sau đây:
Thứ nhất, về lý luận, nguyên tắc là vấn đề có tính sống còn
đối với một tổ chức. Tuân thủ các nguyên tắc thì tổ chức đó vững mạnh,
từ bỏ hoặc thực hiện không nghiêm túc các nguyên tắc thì sẽ dẫn đến tổ
chức rệu rã và có nguy cơ tan rã.
 |
Ảnh minh họa: Tạp chí Tuyên giáo. |
Trải qua hơn 90 năm xây dựng và trưởng thành, Đảng ta luôn vận dụng
và phát triển sáng tạo những nguyên tắc cơ bản của học thuyết Mác-Lênin
về xây dựng Đảng. Tổng kết công tác xây dựng Đảng qua các thời kỳ cách
mạng khác nhau, tuy cách diễn đạt về các nguyên tắc xây dựng Đảng có
khác nhau một vài điểm nhưng nhìn chung, Đảng ta vẫn luôn khẳng định
những nguyên tắc trên cơ sở vận dụng và tuân thủ các nguyên lý cơ bản
của Chủ nghĩa Mác-Lênin.
Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, Đảng ta phát triển nguyên
tắc về nền tảng tư tưởng: “Đảng lấy Chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm
nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động”. Đến Đại hội đại biểu
toàn quốc lần thứ X, Đảng ta khẳng định: “Đảng Cộng sản Việt Nam là đội
tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân
dân lao động và của dân tộc Việt Nam; đại biểu trung thành lợi ích của
giai cấp công nhân, của nhân dân lao động và của dân tộc”.
Đây là lần đầu tiên Đảng ta xác định: Đảng Cộng sản Việt Nam không
chỉ là đội tiền phong của giai cấp công nhân mà còn là đội tiền phong
của nhân dân lao động và của cả dân tộc Việt Nam. Đồng thời, cũng tại
đại hội lần này, Đảng ta bổ sung thêm nguyên tắc: “Đảng hoạt động trong
khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật”. Tuân thủ nghiêm ngặt những nguyên tắc
chủ yếu nói trên trong quá trình xây dựng Đảng là một trong những yếu
tố có tính quyết định bảo đảm cho Đảng ta giữ vững và tăng cường bản
chất giai cấp công nhân, đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công
nhân, nhân dân lao động và dân tộc Việt Nam; là cơ sở khoa học để Đảng
ta không ngừng chăm lo xây dựng Đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức
chiến đấu của Đảng, làm cho Đảng luôn xứng đáng vai trò người lãnh đạo
cách mạng Việt Nam.
Trên cơ sở những nguyên lý về xây dựng chính đảng kiểu mới của giai
cấp công nhân do Lênin nêu ra và thực tiễn hoạt động của Đảng ta, Điều
lệ Đảng Cộng sản Việt Nam do Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI thông
qua (các nhiệm kỳ XII và XIII thống nhất giữ nguyên Điều lệ) quy định
về các nguyên tắc tổ chức và hoạt động như sau: “Đảng là một tổ chức
chặt chẽ, thống nhất ý chí và hành động, lấy tập trung dân chủ làm
nguyên tắc tổ chức cơ bản, thực hiện tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ
trách, thương yêu đồng chí, kỷ luật nghiêm minh, đồng thời thực hiện các
nguyên tắc: Tự phê bình và phê bình, đoàn kết trên cơ sở Cương lĩnh
chính trị và Điều lệ Đảng, gắn bó mật thiết với nhân dân, Đảng hoạt động
trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật”.
Từ đó đến nay, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn kiên định thực hiện nghiêm
5 nguyên tắc này và đó cũng là một trong những yếu tố quyết định sự
thành công của Đảng ta trong thời gian qua.
Thứ hai, quan điểm chỉ đạo là kiên định nhưng không phải là cứng nhắc, giáo điều và cũng không phải là đổi mới vô nguyên tắc.
Văn kiện Đại hội XIII của Đảng nhấn mạnh: “Nhân dân là trung tâm, là
chủ thể của công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; mọi chủ
trương, chính sách phải thực sự xuất phát từ yêu cầu, nguyện vọng, quyền
và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân; thắt chặt mối quan hệ mật
thiết với nhân dân, dựa vào nhân dân để xây dựng Đảng; lấy hạnh phúc,
ấm no của nhân dân làm mục tiêu phấn đấu”.
Trong quá trình thực hiện các nguyên tắc xây dựng Đảng, cần thấm
nhuần quan điểm chỉ đạo: Kiên định và đổi mới, kế thừa và phát triển,
thống nhất giữa lý luận và thực tiễn. Kiên trì, kiên định nhưng không
trở thành giáo điều, cứng nhắc; đổi mới, kế thừa và phát triển nhưng
trên cơ sở giữ vững các nguyên tắc chứ không phải là vô nguyên tắc, dân
chủ quá đà, lẫn lộn giữa đối tượng, đối tác.
Thứ ba, về thực tiễn, trong nghiên cứu, học tập, quán triệt
thực hiện các nghị quyết của Đảng thì chỉ đạo và tổ chức thực hiện vẫn
là khâu yếu, chậm được khắc phục nên khi thực hiện các chỉ thị, nghị
quyết của Đảng rất cần phải kiên định tuân thủ các nguyên tắc. Nếu ai
không tuân thủ sẽ phải chịu trách nhiệm bằng các hình thức kỷ luật của
Đảng.
Đánh giá việc thực hiện các nguyên tắc và đổi mới phương thức lãnh
đạo, văn kiện Đại hội XIII chỉ ra những ưu điểm sau: “Công tác xây dựng
Đảng về chính trị được đặc biệt chú trọng. Kiên định nền tảng tư tưởng
của Đảng, đường lối đổi mới và các nguyên tắc xây dựng Đảng”. “Phương
thức lãnh đạo của Đảng tiếp tục được đổi mới. Ban hành và thực hiện
nhiều quy định bảo đảm giữ vững vai trò lãnh đạo của Đảng, đề cao nguyên
tắc pháp quyền, phát huy dân chủ, tính chủ động, sáng tạo và trách
nhiệm của các cơ quan nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính
trị-xã hội”.
Trong Báo cáo của Ban Chấp hành Trung ương khóa XII về tổng kết công
tác xây dựng Đảng và thi hành Điều lệ Đảng nêu rõ ưu điểm: “Đảng ta luôn
vững vàng, kiên định Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và không
ngừng vận dụng, phát triển sáng tạo phù hợp với thực tiễn Việt Nam;
kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; kiên định đường
lối đổi mới và những nguyên tắc về xây dựng Đảng”.
Về hạn chế, khuyết điểm trong việc thực hiện nghị quyết của Đảng nói
chung, các nguyên tắc xây dựng Đảng nói riêng vẫn còn những hạn chế,
khuyết điểm như Văn kiện Đại hội XIII chỉ ra: “Chỉ đạo và tổ chức thực
hiện vẫn là khâu yếu, chậm được khắc phục”.
Đánh giá việc thực hiện các nguyên tắc xây dựng Đảng, Văn kiện Đại
hội XIII nêu: “Việc thực hiện các nguyên tắc tổ chức của Đảng, nhất là
nguyên tắc tập trung dân chủ ở một số nơi chưa nghiêm, thậm chí còn vi
phạm, mất đoàn kết nội bộ, có nơi còn biểu hiện cục bộ, lợi ích nhóm.
Kiểm soát quyền lực còn lúng túng, hiệu quả thấp”. “Tự phê bình và phê
bình ở nhiều nơi còn hình thức. Thực hiện trách nhiệm nêu gương, nhất là
của người đứng đầu chưa tạo được sự lan tỏa sâu rộng”.
Một số cấp ủy, tổ chức đảng đã vi phạm nghiêm trọng nguyên tắc tập
trung dân chủ và quy chế làm việc; thiếu trách nhiệm, buông lỏng lãnh
đạo, chỉ đạo, quản lý, thiếu kiểm tra, giám sát để xảy ra nhiều vi phạm,
khuyết điểm kéo dài. Đây là điều rất đáng trăn trở vì trong nhiệm kỳ
Đại hội XII, cấp ủy các cấp đã kiểm tra 264.091 tổ chức đảng và
1.124.146 đảng viên; ủy ban kiểm tra các cấp đã kiểm tra khi có dấu hiệu
vi phạm đối với 15.920 tổ chức đảng và 47.701 đảng viên (trong đó có
23.432 cấp ủy viên). Qua kiểm tra, cấp ủy các cấp đã thi hành kỷ
luật 1.329 tổ chức đảng và 69.600 đảng viên; ủy ban kiểm tra các cấp đã
thi hành kỷ luật 17.610 đảng viên. Riêng Ban Chấp hành Trung ương, Bộ
Chính trị, Ban Bí thư đã thi hành kỷ luật 10 tổ chức đảng và 60 đảng
viên; Ủy ban Kiểm tra Trung ương đã thi hành kỷ luật 169 đảng viên
(trong đó có 53 đồng chí là cán bộ diện Bộ Chính trị, Ban Bí thư quản
lý). Các cấp ủy đã giám sát 193.993 tổ chức đảng và 528.652 đảng viên;
ủy ban kiểm tra các cấp đã giám sát 124.469 tổ chức đảng và 185.731 đảng
viên.
Điều cần lưu ý là rất nhiều vi phạm xảy ra từ nhiệm kỳ trước nhưng
đến nay mới bị phát hiện và xử lý. Như vậy trước đó, việc tuân thủ các
nguyên tắc xây dựng Đảng chưa thật sự được coi trọng, thậm chí bị buông
lỏng. Thực trạng này do nhiều nguyên nhân, trong đó có nguyên nhân là
các nguyên tắc xây dựng Đảng chưa được coi trọng và thực hiện nghiêm
túc. Những hạn chế, khuyết điểm nêu trên có nguyên nhân khách quan,
nhưng chủ yếu là nguyên nhân chủ quan: Một số cấp ủy, tổ chức đảng và
cán bộ, đảng viên chưa nhận thức đầy đủ, toàn diện, sâu sắc về tầm quan
trọng của công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng trong tình hình mới; việc
quán triệt các nghị quyết của Đảng ở một số nơi chưa kịp thời, sâu
sắc. Công tác lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện của một số cấp ủy, tổ
chức đảng chưa chủ động, sâu sát, thiếu quyết liệt; chưa coi trọng việc
tự kiểm tra, xử lý vi phạm. Một số nơi, người đứng đầu chưa phát huy
hết trách nhiệm, thiếu bản lĩnh, chưa gương mẫu, còn thụ động, né tránh,
trông chờ vào chỉ đạo, hướng dẫn của cấp trên. Việc thực hiện các
nguyên tắc tổ chức của Đảng, nhất là nguyên tắc tập trung dân chủ ở một
số nơi chưa nghiêm, thậm chí còn vi phạm, mất đoàn kết nội bộ, có nơi
còn biểu hiện cục bộ, lợi ích nhóm. Kiểm soát quyền lực còn lúng túng,
hiệu quả thấp. Sự phối hợp giữa một số cấp ủy với đảng đoàn, ban cán sự
đảng có lúc, có nơi thiếu chặt chẽ, hiệu quả chưa cao. Việc phân định
trách nhiệm của người đứng đầu trong mối quan hệ với cấp ủy và tập thể
lãnh đạo cơ quan, đơn vị chưa rõ; chưa phát huy đúng mức vai trò của cá
nhân trong tập thể. Việc xây dựng, phát huy vai trò của các cơ quan tham
mưu về công tác xây dựng Đảng có lúc, có nơi chưa được quan tâm đúng
mức; một bộ phận cán bộ tham mưu chưa đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong
tình hình mới.
Trong thời gian tới, để góp phần thực hiện thắng lợi Nghị quyết số
35-NQ/TW, ngày 25-10-2018 của Bộ Chính trị khóa XII về “Tăng cường bảo
vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai
trái, thù địch trong tình hình mới” cần thực hiện đồng bộ một số nhiệm
vụ, giải pháp sau:
Thứ nhất, kiên định những nguyên tắc xây dựng Đảng gắn
với thực hiện Nghị quyết số 35-NQ/TW, ngày 25-10-2018 của Bộ Chính trị.
Tăng cường tuyên truyền trong cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân
về nội dung các nguyên tắc xây dựng Đảng để từ nhận thức sẽ có hành
động đúng và tạo sự lan tỏa theo phương châm “lấy cái đẹp, dẹp cái xấu”.
Thứ hai, tập trung xây dựng, thông tin chủ động, chính xác,
kịp thời, toàn diện, đúng đối tượng về các hoạt động, sự kiện chính trị,
xã hội của đất nước. Nâng cao chất lượng, hiệu quả các chuyên trang,
chuyên mục, fanpage, blog, tài khoản mạng xã hội (Zalo, Facebook...) về
bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai
trái, thù địch.
Thứ ba, thường xuyên theo dõi, nắm bắt tình hình tư tưởng,
kịp thời định hướng dư luận xã hội; thực hiện tốt quy chế phát ngôn,
cung cấp thông tin chính thống, kịp thời cho báo chí; công khai kết quả
kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng trên các phương tiện truyền thông; xử
lý nghiêm những thông tin phản ánh không đầy đủ, phiến diện, tiêu cực
một chiều trên báo chí, mạng xã hội.
Thứ tư, quán triệt, thực hiện nghiêm Quy định số 37-QĐ/TW
ngày 25-10-2021 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng về những điều đảng
viên không được làm; Quy định số 22-QĐ/TW ngày 28-7-2021 của Ban Chấp
hành Trung ương khóa XIII về công tác kiểm tra, giám sát và kỷ luật của
Đảng; Quy định số 69-QĐ/TW ngày 6-7-2022 về kỷ luật tổ chức đảng, đảng
viên vi phạm, nhằm nâng cao ý thức, trách nhiệm của cán bộ, đảng viên
trong khai thác, sử dụng internet, mạng xã hội; thường xuyên tuyên
truyền đến cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức, người lao động và
các tầng lớp nhân dân nêu cao tinh thần cảnh giác, không tham gia bình
luận tiêu cực hoặc chia sẻ những thông tin xấu độc trên không gian mạng.
PGS, TS LÊ VĂN CƯỜNG