Cụ
thể hóa quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo trong Hiến pháp năm 2013, Luật
Tín ngưỡng, tôn giáo năm 2016 khẳng định: 1- Mọi người có quyền tự do
tín ngưỡng, theo hoặc không theo một tôn giáo nào; 2- Mỗi người có quyền
bày tỏ niềm tin tín ngưỡng, tôn giáo; thực hành lễ nghi tín ngưỡng, tôn
giáo; tham gia lễ hội; học tập và thực hành giáo lý, giáo luật tôn
giáo; 3- Mỗi người có quyền vào tu tại cơ sở tôn giáo, học tại cơ sở đào
tạo tôn giáo, lớp bồi dưỡng của tổ chức tôn giáo; người chưa thành
niên... phải được cha, mẹ hoặc người giám hộ đồng ý; 4- Chức sắc, chức
việc, nhà tu hành có quyền thực hiện lễ nghi tôn giáo, giảng đạo, truyền
đạo tại cơ sở tôn giáo hoặc địa điểm hợp pháp khác.
Quyền
tự do tín ngưỡng, tôn giáo được mở rộng cho cả những “người bị tạm giữ,
người bị tạm giam theo quy định của pháp luật về thi hành tạm giữ, tạm
giam; người đang chấp hành hình phạt tù; người đang chấp hành biện pháp
đưa vào trường giáo dưỡng, cơ sở giáo dục bắt buộc, cơ sở cai nghiện bắt
buộc”, và “người nước ngoài cư trú hợp pháp tại Việt Nam” (Điều 8).
Quyền
tự do tín ngưỡng, tôn giáo không chỉ được Đảng và Nhà nước Việt Nam
khẳng định, được pháp luật thừa nhận và thực thi trong thực tế, mà còn
có sự tương thích, phù hợp với quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo theo
luật pháp và thông lệ quốc tế. Điều 18 Công ước quốc tế về các quyền dân
sự và chính trị năm 1966 (Việt Nam tham gia năm 1982) quy định: “1. Mọi
người đều có quyền tự do tư tưởng, tín ngưỡng và tôn giáo. Quyền tự do
này bao gồm việc tự do có hoặc theo một tôn giáo hoặc tín ngưỡng do mình
lựa chọn, tự do thể hiện tín ngưỡng hoặc tôn giáo một mình hoặc trong
tập thể với nhiều người khác, một cách công khai hoặc thầm kín dưới hình
thức thờ cúng, cầu nguyện, thực hành và giảng đạo; 2. Không một ai có
thể bị ép buộc phải làm những điều tổn hại đến quyền tự do lựa chọn một
tôn giáo hoặc tín ngưỡng của họ”(5). Tương tự như vậy, Điều 9
Công ước châu Âu về bảo vệ nhân quyền và các quyền tự do cơ bản (ECHR)
ghi: “1. Mọi người đều có quyền tự do tư tưởng, lương tâm và tôn giáo;
quyền này bao gồm quyền tự do thay đổi tôn giáo, tín ngưỡng và quyền tự
do thể hiện tôn giáo, tín ngưỡng của mình thông qua hành vi thờ phụng,
thuyết giảng, thực hành và tuân thủ giáo luật một mình hoặc với một
nhóm, ở nơi riêng tư hoặc nơi công cộng”(6).
Thứ hai,
các thế lực phản động, thù địch, trong đó có USCIRF, xuyên tạc rằng, cả
Hiến pháp và Luật Tín ngưỡng, tôn giáo của Việt Nam đều có những quy
định nhằm hạn chế quyền tự do tôn giáo: Hiến pháp cũng quy định sự tôn
trọng và bảo vệ quyền tự do tín ngưỡng và tôn giáo, nhưng nó cho phép
các cơ quan chức năng hạn chế quyền con người, bao gồm cả quyền tự do
tôn giáo; Luật Tín ngưỡng, tôn giáo có các quy định tương tự cho phép
hạn chế quyền tự do tôn giáo(?!). Những lập luận xấu, độc, nguy hiểm này
là bất chấp an ninh quốc gia, trật tự công cộng, an toàn xã hội, đạo
đức xã hội và hạnh phúc của cộng đồng. Chúng hoàn toàn không có cơ sở
pháp lý, mang tính áp đặt của các thế lực phản động, thù địch và của
USCIRF đối với tự do tôn giáo ở Việt Nam.
Trong
luật pháp quốc tế cũng như luật pháp của các quốc gia, quyền tự do tín
ngưỡng, tôn giáo không phải là tự do tuyệt đối, tự do vô chính phủ. Tự
do tín ngưỡng phải tôn trọng và không ảnh hưởng đến các quyền công dân,
đến quyền tự do của người khác và đặc biệt không được ảnh hưởng đến an
ninh quốc gia, trật tự công cộng, môi trường, đạo đức xã hội. Chính vì
vậy, để bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo và ổn định, phát triển
xã hội, Điều 5 Luật Tín ngưỡng, tôn giáo của Việt Nam quy định rõ các
hành vi bị nghiêm cấm: “1. Phân biệt đối xử, kỳ thị vì lý do tín ngưỡng,
tôn giáo; 2. Ép buộc, mua chuộc hoặc cản trở người khác theo hoặc không
theo tín ngưỡng, tôn giáo; 3. Xúc phạm tín ngưỡng, tôn giáo; 4. Hoạt
động tín ngưỡng, hoạt động tôn giáo; a) Xâm phạm quốc phòng, an ninh,
chủ quyền quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, môi trường; b) Xâm hại đạo
đức xã hội; xâm phạm thân thể, sức khỏe, tính mạng, tài sản; xúc phạm
danh dự, nhân phẩm của người khác; c) Cản trở việc thực hiện quyền và
nghĩa vụ công dân; d) Chia rẽ dân tộc; chia rẽ tôn giáo; chia rẽ người
theo tín ngưỡng, tôn giáo với người không theo tín ngưỡng, tôn giáo,
giữa người theo các tín ngưỡng, tôn giáo khác nhau; 5. Lợi dụng hoạt
động tín ngưỡng, tôn giáo để trục lợi”.
Những
quy định về hạn chế quyền tự do tôn giáo trong luật pháp về tôn giáo
của Việt Nam nêu trên hoàn toàn phù hợp, tương thích với luật pháp quốc
tế về quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo. Khoản 3, Điều 18 Công ước quốc
tế về các quyền dân sự và chính trị của Liên hợp quốc (năm 1966) ghi:
“Quyền tự do thể hiện tôn giáo hoặc tín ngưỡng chỉ có thể bị giới hạn
bởi những quy định pháp luật và khi những giới hạn này là cần thiết cho
việc bảo vệ an toàn, trật tự công cộng, sức khỏe hoặc đạo đức của công
chúng hoặc những quyền và tự do cơ bản của người khác”(7).
Điều đó cũng được Công ước châu Âu về bảo vệ nhân quyền và các quyền tự
do cơ bản thừa nhận tại Điều 9: “Quyền tự do thể hiện tôn giáo, tín
ngưỡng của một người chỉ bị luật pháp giới hạn nếu điều đó là cần thiết
trong một xã hội dân chủ, phục vụ an ninh công cộng, bảo vệ trật tự trị
an, sức khỏe, chuẩn mực đạo đức chung hoặc các quyền và sự tự do của
người khác”(8). Luật pháp của nhiều nước trong khi khẳng định
quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo cũng chế định quyền ấy sẽ bị hạn chế
vì trật tự công cộng, an ninh quốc gia. Nước Pháp là một ví dụ, Luật
Phân ly 1905 quy định: “Cộng hòa Pháp bảo đảm tự do tín ngưỡng. Nó bảo
đảm quyền tự do hành đạo với những hạn chế vì quyền lợi duy trì trật tự
công cộng”(9).
Như
vậy, quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo là phải có giới hạn, quyền ấy sẽ
bị hạn chế vì an ninh quốc gia, trật tự công cộng, đạo đức xã hội, môi
trường, chứ không như đòi hỏi vô lý của USCIRF và một số giới chức Mỹ.
Thứ ba,
các luận điệu sai trái, thù địch nhìn nhận không đúng về mô hình quản
lý tôn giáo theo chế độ “đăng ký” của Việt Nam. Họ lập luận hàm hồ rằng,
Luật Tín ngưỡng, tôn giáo bắt các tôn giáo phải đăng ký, bao
gồm: các điều khoản mơ hồ cho phép tự do tôn giáo vì lợi ích an ninh
quốc gia và đoàn kết xã hội; đặt ra gánh nặng và yêu cầu phức tạp đối
với các nhóm tôn giáo để đăng ký với chính phủ; có những quy định sự
kiểm soát đáng kể của chính phủ đối với các hoạt động tôn giáo bằng
những điều khoản hạn chế quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, như duy trì
một quy trình đăng ký và công nhận nhiều giai đoạn cho các nhóm tôn giáo
(?!).
Những
nhận định trên rõ ràng là mang tính áp đặt, không đúng với điều kiện
thực tế công tác quản lý nhà nước về tôn giáo ở Việt Nam. Bởi lẽ, mỗi
quốc gia đều có cách thức quản lý hoạt động tôn giáo phù hợp với truyền
thống và thực tế của mình, trong đó quản lý hoạt động tôn giáo thông qua
con đường đăng ký là một hình thức phổ biến, thích hợp và hiện
thực ở nhiều quốc gia (như Pháp, Bun-ga-ri, Ba Lan, Nhật Bản, Nga,
Trung Quốc...), trong đó có Việt Nam. Theo đó, mỗi quốc gia có những yêu
cầu riêng về điều kiện và thể thức việc đăng ký xem xét tư cách pháp
nhân của các tổ chức tôn giáo. Có quốc gia xem việc đăng ký pháp nhân
của tổ chức tôn giáo thuộc vấn đề ở cấp quốc gia, như Ba Lan, Nga,
I-ta-li-a, Đức, Lat-vi-a; có quốc gia chỉ ở cấp hội đồng tỉnh, thành phố
(Bun-ga-ri). Về điều kiện, có sự khác biệt giữa các nước, trong đó yếu
tố thời gian tồn tại, số lượng, cơ sở tài sản tôn giáo, nhân sự, khả
năng tài chính..., là những tiêu chí cơ bản(10). Việt Nam lựa
chọn mô hình quản lý theo hình thức “đăng ký” và phân cấp chủ thể có
thẩm quyền cấp đăng ký theo phạm vi hoạt động của tôn giáo là hợp lý và
phù hợp với điều kiện Việt Nam.
Luật
pháp Việt Nam đưa ra những tiêu chí cụ thể để công nhận tổ chức tôn
giáo chứ không phải để cản trở tự do tôn giáo. Theo đó, mọi tôn giáo nếu
bảo đảm những điều kiện đó đều được công nhận, khác với một số quốc gia
chỉ thừa nhận một số tôn giáo chủ yếu(11). Luật Tín ngưỡng,
tôn giáo của Việt Nam ngoài những điều kiện về thời gian (giảm từ 23 năm
theo Pháp lệnh Tín ngưỡng, tôn giáo xuống còn 5 năm), nhân sự, địa điểm
hợp pháp, còn có yêu cầu về hiến chương, điều lệ, tôn chỉ, mục đích...
Luật Tín ngưỡng, tôn giáo còn phân cấp quản lý (Trung ương và địa
phương) theo phạm vi hoạt động của tổ chức tôn giáo. Bởi lẽ, tổ chức tôn
giáo ở Việt Nam rất đa dạng, có tôn giáo phạm vi sinh hoạt trên khắp cả
nước, như Phật giáo, Công giáo, Tin lành; có tôn giáo phạm vi hoạt động
chỉ trong một khu vực, như Phật giáo Hòa Hảo, Bà-la-môn giáo, có tôn
giáo thuộc loại nhóm nhỏ, như Minh sư đạo, Minh lý đạo, Bửu sơn Kỳ
hương, Phật giáo Hiếu nghĩa Tà Lơn, Mặc Môn, đạo Baha’i (ở Việt Nam); có
tôn giáo có nhiều tổ chức, hệ phái khác nhau, như Cao Đài, Tin lành,...
Do đó, cơ chế công nhận và quản lý hoạt động của tổ chức tôn giáo theo
hình thức đăng ký theo quy mô hoạt động của tôn giáo là phù hợp với điều
kiện thực tế Việt Nam, cũng giống như nhiều quốc gia khác và được luật
pháp quốc tế thừa nhận (tính đặc thù). Đó không phải là điều kiện đặt ra
để hạn chế hay cản trở quyền tự do tôn giáo như USCIRF hay các thế lực
phản động, thù địch xuyên tạc.
Thứ tư,
các quan điểm sai trái, thù địch, luận điệu xuyên tạc về tình hình tự
do tôn giáo ở Việt Nam chủ yếu dựa vào một số hiện tượng, nhóm trái
pháp luật mang danh nghĩa tôn giáo, chưa được công nhận, có hiện tượng
hoạt động vi phạm pháp luật để quy kết Việt Nam “đàn áp tôn giáo”. Ví
như: Nhóm bất hợp pháp Dương Văn Mình (Tây Bắc), Hà Mòn (Tây Nguyên),
Hội thánh Đức Chúa Trời Mẹ, Pháp luân công (không được thừa nhận là hiện
tượng tín ngưỡng, tôn giáo). Các hiện tượng (nhóm) đó chưa đủ điều kiện
để được đăng ký sinh hoạt tôn giáo tập trung hay công nhận tư cách pháp
nhân tôn giáo theo quy định của Luật Tín ngưỡng, tôn giáo (giáo lý,
giáo luật, lễ nghi, tôn chỉ, mục đích, điều lệ, tổ chức, nhân sự). Thậm
chí có một số nhóm lợi dụng hoạt động tôn giáo chống Nhà nước Việt Nam,
như Văn phòng Công lý và hòa bình (do một số giáo sĩ, tu sĩ cực đoan của
tỉnh dòng Chúa Cứu thế Việt Nam); nhóm Hội đồng Liên tôn (gồm một số
giáo sĩ cực đoan thuộc 5 tôn giáo tham gia: Công giáo, Tin lành, Phật
giáo, Cao Đài, Phật giáo Hòa Hảo); nhóm Liên đoàn dân chủ Công giáo Việt
Nam; nhóm Phật giáo Việt Nam thống nhất; nhóm Phật giáo Hòa Hảo thuần
túy và Phật giáo Hòa Hảo truyền thống; nhóm Khối Nhơn
sanh (Cao Đài); nhóm Tin lành Đấng Christ, Tin lành Lutheran Việt Nam -
Hoa Kỳ (trong vùng đồng bào dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên; nhóm Giê-sùa,
Bà Cô Dợ (Tin lành ở Tây Bắc)... đã được USCIRF nêu lên như những minh
chứng cho việc Việt Nam “đàn áp tôn giáo”(?!).
Dựa
vào các nhóm trái pháp luật mang danh nghĩa tôn giáo cực đoan, chưa
được chính quyền công nhận, lấy đó làm cơ sở để phê phán “đàn áp tôn
giáo” là cách thức mà USCIRF và một số cá nhân, tổ chức thường sử dụng
để áp đặt một cách vô lý quan điểm của họ, không chỉ đối với Việt Nam,
mà còn đối với nhiều quốc gia trên thế giới. Trên thực tế, nhiều quốc
gia có những biện pháp cứng rắn, kiên quyết dẹp bỏ các hiện tượng tôn
giáo mới cực đoan để bảo đảm an ninh, trật tự xã hội, như Trung Quốc đối
với Pháp luân công; Nga đối với giáo phái Hội anh em trong trắng (The
White Brotherhood), nhân chứng Giê-hô-va; Nhật Bản đối với phái Chân lý
tối thượng (Aum Shirikyo); kể cả Pháp đối với các giáo phái cực đoan,
cũng bị Mỹ xếp vào diện các nước hạn chế quyền tự do tôn giáo.
Các báo cáo của USCIRF
và quan điểm sai trái, thù địch chủ yếu dựa vào một số phần tử cực đoan
lợi dụng tôn giáo hoạt động chống Nhà nước Việt Nam, bị tòa án phạt tù,
lấy đó là những “tù nhân lương tâm” (?!) để quy kết Việt Nam vi phạm
nhân quyền, dân chủ, tự do tôn giáo. Trong đó có các đối tượng như:
Nguyễn Bắc Truyển (nhóm Phật giáo Hòa Hảo truyền thống, bị tuyên phạt 11
năm); Y Yich (bị kết án 12 năm) - người dân tộc thiểu số theo nhóm Tin
lành cực đoan ở Tây Nguyên; Phan Văn Thu (án tù chung thân) - người sáng
lập nhóm Ân đàn Đại đạo (Phú Yên),... Đó đều là những phần tử lợi dụng
tôn giáo chống Nhà nước Việt Nam nên bị phạt tù theo quy định của Bộ
luật Hình sự, chứ không phải các “tù nhân lương tâm”, như USCIRF gán
cho.
Quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam được pháp luật bảo hộ và luôn được bảo đảm, thực thi trong thực tế
Việt
Nam đã xây dựng được một hệ thống chính sách, pháp luật bảo đảm quyền
tự do tín ngưỡng, tôn giáo phù hợp với luật pháp, thông lệ quốc tế
Cho
đến nay, Việt Nam đã xây dựng được hệ thống pháp luật liên quan đến tự
do tôn giáo tương đối hoàn chỉnh, từ Hiến pháp năm 2013, Pháp lệnh Tín
ngưỡng, tôn giáo năm 2004 đến Luật Tín ngưỡng, tôn giáo năm 2016. Với sự
ra đời của Luật Tín ngưỡng, tôn giáo, Việt Nam cơ bản đã xây dựng hoàn
thiện hệ thống luật pháp về tôn giáo làm công cụ pháp lý cho việc bảo
đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của mọi người; Việt Nam cũng là một
trong số ít quốc gia trên thế giới ban hành luật riêng về tự do tôn
giáo (hơn 20 quốc gia ban hành luật riêng về tôn giáo). Việc tổ chức,
triển khai thực hiện chính sách và luật pháp về tôn giáo được quan tâm
coi trọng, quyền tự do tôn giáo của mọi người được bảo đảm trong thực tế
theo quy định của pháp luật.
Quyền
tự do tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam luôn được thực hiện trong thực
tiễn, được pháp luật bảo hộ và được chính quyền tạo điều kiện.
Trước hết,
số lượng tín đồ các tôn giáo không ngừng gia tăng, sinh hoạt đời sống
tâm linh, tôn giáo diễn ra sôi động. Theo số liệu của Ban Tôn giáo Chính
phủ, số lượng tín đồ, chức sắc tôn giáo không ngừng tăng lên. Năm 1997,
cả nước có trên 15 triệu tín đồ, chiếm hơn 20% dân số; đến năm 2021, số
tín đồ của 41 tổ chức tôn giáo đã được công nhận tăng lên 26,59 triệu
người, chiếm trên 27% dân số. Bên cạnh đó có hơn 200 nghìn người thuộc
70 nhóm Tin lành tư gia và trên 30 nghìn người thuộc hơn 60 hiện tượng
tôn giáo mới (“đạo lạ”), chưa đăng ký sinh hoạt tôn giáo tập trung(12). Ngoài ra, đại đa số người Việt Nam có đời sống tâm linh, theo tín ngưỡng đa thần truyền thống.
Người
Việt Nam ít theo tôn giáo (27% dân số theo tôn giáo, trong khi 84,5%
dân số thế giới theo tôn giáo), nhưng đa số người Việt Nam (trên 75%
người Việt Nam nói chung; trên 80% người dân tộc thiểu số nói riêng)
theo tín ngưỡng đa thần truyền thống. Đó là điểm khác biệt so với các
quốc gia phương Tây hay quốc gia theo tôn giáo độc thần (Kitô giáo,
Islam giáo). Vì thế, dù không theo tôn giáo, song người Việt Nam lại có
đời sống tâm linh sâu đậm, tham gia sinh hoạt tín ngưỡng sôi nổi, nhiệt
tình. Điều này thể hiện khá rõ trong sinh hoạt tôn giáo, tín ngưỡng, lễ
hội truyền thống.
Sinh
hoạt tín ngưỡng, tôn giáo diễn ra sôi động ở khắp các vùng, miền, các
cộng đồng dân cư, các tầng lớp xã hội, nhất là vào dịp đầu năm, lễ hội
truyền thống. Tín đồ các tôn giáo đều thực hiện sinh hoạt tôn giáo
thường xuyên trong gia đình và nơi thờ tự theo nghi lễ truyền thống của
mỗi tôn giáo. Các tôn giáo đẩy mạnh hoạt động, nhiều sinh hoạt tôn giáo
diễn ra với quy mô lớn, thời gian kéo dài, thu hút một số lượng rất lớn,
không chỉ tín đồ, mà cả những người không theo tôn giáo tham dự. Nhiều
hoạt động tôn giáo thu hút hàng trăm nghìn người tham gia, như các kỳ
đại lễ Vesark của Phật giáo (các năm 2008, 2014, 2019); lễ hành hương
thánh địa La Vang, lễ khai mạc Năm thánh (năm 2010), đại hội giới trẻ
của Công giáo; lễ công nhận pháp nhân, kỷ niệm khai đạo của Cao Đài;
Phật giáo Hòa Hảo; lễ kỷ niệm 100 năm Tin lành đến Việt Nam (năm 2011);
lễ kỷ niệm 500 năm cải cách Tin lành (năm 2017)(13).
Các
tôn giáo, như Phật giáo, Công giáo, Tin lành tổ chức nhiều cuộc lễ kết
nạp tín đồ tập thể với quy mô lớn, số lượng lên tới hàng trăm, thậm chí
hàng nghìn người, như lễ Quy y cho 3.755 người dân tộc thiểu số (Ba Na
và Sơ Đăng) ở tỉnh Kon Tum (tháng 4-2009); cho 5.311 người (dân tộc
Xtiêng) ở tỉnh Bình Phước (tháng 7-2011)(14); lễ Báp-tem tập thể của Tin lành; lễ rửa tội, lễ thêm sức tập thể của Công giáo(15).
Đây là những điểm mới, ít nơi nào trên thế giới có được, thể hiện quyền
tự do tín ngưỡng, tôn giáo luôn được Nhà nước Việt Nam và các cấp chính
quyền tạo điều kiện, bảo đảm.
Thứ hai, các
tổ chức tôn giáo được công nhận tư cách pháp nhân ngày càng nhiều và
tiếp tục gia tăng. Trước năm 1990, Nhà nước mới công nhận ba tổ chức,
gồm Hội thánh Tin lành Việt Nam (miền Bắc, năm 1958), Hội đồng Giám mục
Việt Nam (năm 1980), Giáo hội Phật giáo Việt Nam (năm 1981). Từ năm 1990
đến năm 2004 (trước khi có Pháp lệnh Tín ngưỡng, tôn giáo) 6 tôn giáo:
Phật giáo, Công giáo, Tin lành, Cao Đài, Phật giáo Hòa Hảo, Islam giáo
(Hồi giáo), 12 tổ chức tôn giáo được công nhận; từ năm 2004 đến năm 2017
(thực hiện Pháp lệnh Tín ngưỡng, tôn giáo) có 15 tôn giáo, 37 tổ chức
tôn giáo được công nhận; từ năm 2018 đến năm 2021 (thực hiện Luật Tín
ngưỡng, tôn giáo): 1 tổ chức tôn giáo được công nhận, 3 tổ chức tôn giáo
được cấp đăng ký hoạt động. Đến năm 2021, cả nước có 16 tôn giáo với 41
tổ chức tôn giáo được công nhận tư cách pháp nhân hay đăng ký hoạt
động. Bên cạnh đó, còn có hàng nghìn tổ chức tôn giáo trực thuộc, 3.803
điểm, nhóm đã được cấp giấy đăng ký sinh hoạt tôn giáo tập trung.
Sau
khi được công nhận tư cách pháp nhân hay cấp đăng ký sinh hoạt tôn
giáo, các tổ chức tôn giáo đẩy mạnh hoạt động, tích cực củng cố tổ chức
giáo hội, đào tạo chức sắc, xây dựng cơ sở vật chất nhằm đáp ứng nhu cầu
sinh hoạt tôn giáo của tín đồ. Công tác đào tạo chức sắc được các tổ
chức tôn giáo đẩy mạnh. Trước năm 1990, cả nước có 6 cơ sở đào tạo tôn
giáo (Phật giáo: 2, Công giáo: 4). Đến năm 2021, cả nước có 63 cơ sở đào
tạo người hoạt động tôn giáo chuyên nghiệp (Phật giáo: 46; Công giáo:
11; Tin lành: 3; Cao Đài: 2; Phật giáo Hòa Hảo: 1), mỗi năm có hàng
nghìn người tốt nghiệp. Năm 2021, cả nước có 8.884 người tốt nghiệp ra
trường, 13.350 người đang theo học. Ngoài ra, còn có hàng trăm người
đang du học tại nước ngoài. Nhờ vậy, số chức sắc, nhà tu hành tăng rất
nhanh (từ 31.548 người năm 1995, lên 54.125 người năm 2021). Ngoài ra
còn có đội ngũ nhà tu hành đông đảo (riêng Phật giáo hiện có 54.000
tăng, ni; Công giáo có 6.000 giáo sĩ, 31.000 tu sĩ). Cả nước hiện có
trên 108.770 chức sắc, nhà tu hành(16), cơ bản đáp ứng được nhu cầu hướng dẫn việc đạo cho tín đồ.
Công
tác xây dựng cơ sở thờ tự được các tôn giáo quan tâm, đẩy mạnh. Từ năm
1990 đến nay, cơ sở thờ tự được xây dựng, sửa chữa khá mạnh mẽ ở khắp
nơi trong cả nước nhằm đáp ứng nhu cầu sinh hoạt tôn giáo của giáo dân.
Năm 2000, cả nước có 18.474 cơ sở thờ tự của các tôn giáo, đến năm 2021
tăng lên 30.047 cơ sở(17), tăng 11.573 cơ sở trong 20 năm,
bình quân mỗi năm có thêm 579 cơ sở thờ tự. Hầu hết các cơ sở thờ tự
được xây dựng, sửa chữa khang trang to lớn, có công trình lên hàng chục,
thậm chí hàng trăm tỷ đồng. Chính quyền địa phương quan tâm giải quyết,
cấp đất cho các tổ chức tôn giáo xây dựng cơ sở tôn giáo(18).
Các
tôn giáo còn đẩy mạnh việc in ấn, xuất bản, dịch thuật một khối lượng
lớn kinh sách, đồ dùng việc đạo. Trong 5 năm (2000 - 2004), Nhà xuất bản
Tôn giáo đã in ấn, xuất bản được 719 ấn phẩm tôn giáo với số lượng 4,2
triệu bản, trong đó có nhiều kinh sách được dịch ra tiếng dân tộc thiểu
số, như Ba-na, Ê-đê, Gia-rai. Đó là chưa kể một số lượng rất lớn kinh
sách in ấn thông qua xuất bản khác hoặc được in ấn ở các cơ sở khác(19).
Bên cạnh kinh, sách, báo chí in ấn, mảng kinh, sách, tài liệu, báo chí
điện tử rất đa dạng, phong phú với số lượng không hạn chế cấp không cho
tín đồ và những người quan tâm qua các phương tiện truyền thông xã hội.
Nhằm đáp ứng nhu cầu sinh hoạt, tìm hiểu về tôn giáo, năm 2022, Bộ Công
an cung cấp 17 đầu sách (9 đầu kinh sách, 8 đầu sách tìm hiểu về tôn
giáo) với 4.418 cuốn cho 54 trại giam, tạm giam trong cả nước.
Những
số liệu nêu trên là minh chứng sinh động, rõ nét nhất cho tình hình tự
do tôn giáo ở Việt Nam. Điều ấy càng khẳng định sự đúng đắn trong chính
sách, pháp luật về tự do tôn giáo của Việt Nam và sự phù hợp với luật
pháp, thông lệ quốc tế, chứ không phải dựa vào một số hiện tượng nhỏ lẻ
để rêu rao rằng, luật pháp Việt Nam “đi ngược với tiêu chuẩn nhân quyền
quốc tế và vi phạm một cách có hệ thống tự do tín ngưỡng”. Những nhận
định ấy là không đúng, thiếu khách quan với thực tế luật pháp, tình hình
tự do tôn giáo ở Việt Nam, làm tổn hại đến quan hệ giữa hai nước Việt
Nam và Mỹ. Do đó, việc Bộ Ngoại giao Mỹ không đưa Việt Nam vào nhóm các
nước cần quan tâm đặc biệt (CPC) theo đề nghị của Ủy ban này trong suốt
15 năm (từ năm 2007) đến nay là đúng đắn.
Đồng thời, để
công tác đấu tranh chống các quan điểm sai trái, thù địch, bảo vệ nền
tảng tư tưởng của Đảng ta trên lĩnh vực tôn giáo, dân tộc có hiệu quả,
góp phần làm cho xã hội và cộng đồng quốc tế hiểu rõ hơn luật pháp về tự
do tôn giáo và tình hình tự do tôn giáo ở Việt Nam, chúng ta cần chú
trọng đến các giải pháp sau: 1- Tăng cường công tác tuyền truyền, phổ
biến về luật pháp về tự do tôn giáo và tình hình tự do tôn giáo ở nước
ta cho toàn dân và cộng đồng quốc tế hiểu rõ hơn; 2- Tiếp tục bổ sung,
hoàn thiện hệ thống chính sách, pháp luật về tự do tín ngưỡng, tôn giáo
cho phù hợp với tình hình thực tế nước ta và các điều ước quốc tế mà
Việt Nam là thành viên; 3- Quán triệt nâng cao nhận thức cho hệ thống
chính trị về quan điểm, chính sách, pháp luật của Nhà nước về tôn giáo;
nâng cao hiệu quả công tác quản lý nhà nước về tôn giáo; nghiêm túc chấp
hành chính sách, pháp luật về tự do tín ngưỡng, tôn giáo; 4- Đa dạng
hóa công tác truyền thông, kịp thời và nâng cao chất lượng của công tác
đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch nhằm bảo vệ vững
chắc nền tảng tư tưởng của Đảng trên phương diện tín ngưỡng, tôn giáo.
Đi đôi với đấu tranh phản bác các luận điểm sai trái, thù địch cần phải
tổng kết thực tiễn, bổ sung, phát triển lý luận của Đảng về tôn giáo
ngày càng sâu sắc hơn, đáp ứng với yêu cầu của cách mạng trong tình hình
mới./.