Quan điểm của V.I. Lê-nin về xây dựng Đảng và Nhà nước trong sạch, vững mạnh
Thứ nhất, giải quyết tốt mối quan hệ giữa Đảng - Nhà nước - nhân dân và xã hội.
V.I.
Lê-nin khẳng định, khi trở thành đảng cầm quyền, Đảng là hạt nhân lãnh
đạo Nhà nước và toàn xã hội trên mọi phương diện, trong mọi lĩnh vực của
đời sống. Đây là vấn đề nguyên tắc, vì “nếu không có sự thống trị của
giai cấp vô sản trong nhà nước thì cũng không thể nói đến chủ nghĩa xã
hội được”(1). Đảng lãnh đạo Nhà nước, nhân dân và xã hội bằng
hệ tư tưởng khoa học và cách mạng - đó là chủ nghĩa Mác, “lý luận cách
mạng duy nhất đúng”, một học thuyết hoàn bị vững như đá hoa cương. Trên
cơ sở nền tảng lý luận khoa học này, Đảng vạch ra cương lĩnh chính trị,
chiến lược, sách lược đúng đắn; đồng thời, vận động, tập hợp, thuyết
phục quần chúng đi theo, ủng hộ và tham gia tích cực, vì “trong quần
chúng nhân dân, chúng ta chỉ tựa như một giọt nước trong đại dương, và
chỉ khi nào biểu hiện được đúng ý nguyện của nhân dân, thì chúng ta mới
quản lý nhà nước được. Nếu không, Đảng cộng sản sẽ không lãnh đạo được
giai cấp vô sản, giai cấp vô sản sẽ không lôi cuốn được quần chúng theo
mình, và tất cả bộ máy sẽ tan rã”(2).
Mặc
dù khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước, nhưng V.I.
Lê-nin cũng nhấn mạnh đến việc phải giải quyết hài hòa mối quan hệ giữa
hai chủ thể này; trong đó, Đảng tuyệt đối không được lấn sân, làm thay
Nhà nước. Do vậy, Người yêu cầu: “cần phân định một cách rõ ràng hơn nữa
những nhiệm vụ của Đảng... với nhiệm vụ của Chính quyền Xô-viết; tăng
thêm trách nhiệm và tính chủ động cho các cán bộ Xô-viết và các cơ quan
Xô-viết, còn về đảng thì dành quyền lãnh đạo chung công tác của tất cả
các cơ quan nhà nước gộp chung lại, mà không can thiệp một cách quá
thường xuyên, không chính quy và thường là nhỏ nhặt”(3).
Dưới
sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước đóng vai trò nòng cốt trong hoạt động
quản lý, phục vụ xã hội nhằm hiện thực hóa chủ trương, đường lối, cương
lĩnh của Đảng vào cuộc sống thông qua hệ thống của mình từ Trung ương
đến các địa phương, thông qua các cơ quan, các tổ chức nhà nước; do vậy,
phải thiết lập các cơ quan xô-viết (các tổ chức của bộ máy nhà nước xã
hội chủ nghĩa). V.I. Lê-nin viết: “Chừng nào mà những cơ quan xô-viết
còn chưa được thiết lập trên khắp nước Nga, chừng nào mà việc xã hội hóa
ruộng đất và việc quốc hữu hóa công xưởng chỉ là những ngoại lệ, thì
tất nhiên sự quản lý xã hội đối với nền kinh tế quốc dân chưa thể thoát
khỏi (nếu chúng ta xét theo quy mô toàn quốc) cái giai đoạn chuẩn bị sơ
bộ với những cuộc tranh luận, thảo luận và giải thích”(4).
Thứ hai, chỉ rõ tác hại của những suy thoái, tiêu cực trong Đảng và trong bộ máy của Nhà nước.
Cùng
với việc khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng và quản lý của Nhà nước
trong tiến trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, V.I. Lê-nin cũng chỉ rõ
những bất cập, những tiêu cực trong Đảng và trong Nhà nước cần phải được
nhận diện và loại bỏ triệt để, bởi nếu không, chúng sẽ làm suy yếu vai
trò lãnh đạo của Đảng và sự quản lý của Nhà nước, làm xói mòn niềm tin
của nhân dân vào Đảng, Nhà nước và chế độ, khiến cho quá trình xây dựng
chủ nghĩa xã hội sẽ không thể thành công.
Trong
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, những tệ nạn, tiêu cực xã hội len
lỏi vào các cơ quan đảng và bộ máy nhà nước, gây ra những ung nhọt phá
hoại uy tín, sức mạnh của Đảng và của Nhà nước, tàn phá xã hội. Những
biểu hiện tiêu cực đó rất đa dạng. V.I. Lê-nin tập trung nhận diện những
biểu hiện cơ bản sau:
Một là, chủ nghĩa cơ hội, sự suy thoái về tư tưởng chính trị, phai nhạt lý tưởng cách mạng.
Trong cuộc đấu tranh tư tưởng nhằm bảo vệ bản chất khoa học và cách
mạng của chủ nghĩa Mác, V.I. Lê-nin đã kiên quyết đấu tranh chống chủ
nghĩa cơ hội trong phong trào công nhân. Biểu hiện của nó là “trên đầu
lưỡi thì thừa nhận cách mạng mà trên thực tế thì từ bỏ cách mạng”(5). Đối với học thuyết Mác, “chúng tước hết nội dung của
học thuyết cách mạng, tầm thường hóa học thuyết đó và làm cùn khía cạnh
sắc bén cách mạng của nó... Chúng lãng quên, chúng xóa nhòa, chúng
xuyên tạc khía cạnh cách mạng, tinh thần cách mạng của học thuyết ấy”(6).
Điều này vô cùng nguy hiểm, vì chủ nghĩa cơ hội làm nhụt ý chí đấu
tranh, gây mơ hồ trong nhận thức lý luận, dẫn đến suy thoái về tư tưởng
chính trị, phai nhạt lý tưởng cách mạng của đội ngũ cán bộ, đảng viên,
khiến họ “bị chủ nghĩa đế quốc mua chuộc và làm hư hỏng”(7). V.I. Lê-nin chỉ rõ rằng, “mọi sự coi nhẹ hệ tư tưởng xã hội chủ nghĩa, mọi sự xa rời hệ tư tưởng xã hội chủ nghĩa đều có nghĩa là tăng cường hệ tư tưởng tư sản”(8).
Do vậy, theo V.I. Lê-nin, cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa cơ hội trong
Đảng và Nhà nước, rộng hơn là trong phong trào công nhân, không chỉ là
vấn đề của riêng nước Nga, mà còn là vấn đề chung của mỗi đảng cộng sản.
Hai là, quan liêu, tham nhũng, suy thoái về đạo đức, lối sống.
Theo V.I. Lê-nin, bản chất của quan liêu là tư tưởng đề cao địa vị, bị
chi phối bởi chủ nghĩa cá nhân, chạy theo danh lợi, chức quyền: “chủ
nghĩa quan liêu có thể dịch ra tiếng Nga bằng danh từ: chủ nghĩa địa vị.
Chủ nghĩa quan liêu, tức là đem lợi ích của sự nghiệp phục tùng lợi ích của tư tưởng danh vị, tức là hết sức chú trọng đến địa vị mà không đếm xỉa đến công tác; tức là tranh giành nhau để được bổ tuyển”(9).
Những kẻ quan liêu chỉ chăm lo cho lợi ích cá nhân mà trở thành những
kẻ lười nhác, ích kỷ; thành những kẻ kiêu ngạo, hống hách, những nhân
vật có đặc quyền, đặc lợi, thoát ly quần chúng và đứng trên
quần chúng. Họ lợi dụng chức quyền, địa vị để thăng quan tiến chức.
Trong lĩnh vực quản lý nhà nước, chủ nghĩa quan liêu nặng về giấy tờ
hành chính và cán bộ mắc “bệnh quan liêu” thì chỉ biết nghe báo cáo và
thường dùng mệnh lệnh để hối thúc công việc, xa rời thực tiễn, độc đoán,
chuyên quyền, mất dân chủ, gây mâu thuẫn, mất đoàn kết nội bộ; do vậy,
muốn tiếp tục công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội có kết quả thì cần
phải tiếp tục đấu tranh chống chủ nghĩa quan liêu.
Nguy
hiểm hơn, từ quan liêu dẫn đến hối lộ, tham nhũng phát tác, trở thành
hiện tượng nhức nhối, thật sự điển hình của nước Nga và là một trong “ba
kẻ thù chính đang đứng trước mỗi người, bất kể người đó làm việc gì, ở
cương vị nào... kẻ thù thứ nhất - tính kiêu ngạo cộng sản chủ nghĩa; kẻ
thù thứ hai - nạn mù chữ; kẻ thù thứ ba - nạn hối lộ”(10).
Nạn hối lộ, tham nhũng không chỉ làm thiệt hại, kìm hãm sự phát triển
kinh tế - xã hội, mà còn để lại những hậu quả chính trị - xã hội nghiêm
trọng và là kẻ thù của chủ nghĩa xã hội. V.I. Lê-nin phê phán mạnh mẽ tệ
nạn này và chỉ rõ: “nếu còn có thể hối lộ được, thì cũng không thể nói
đến chính trị được... Trong những điều kiện đó, không thể làm được một
thứ chính trị nào hết”(11). Vậy mà, một bộ phận cán bộ, đảng
viên “bị tiêm nhiễm, bị hủ hóa bởi bầu không khí đó, dẫn đến suy thoái
về đạo đức, lối sống, vi phạm những tính xấu như: tính nhu nhược, tính
tản mạn, chủ nghĩa cá nhân, từ lạc quan chuyển sang bi quan”(12),
thoái hóa, biến chất, lợi dụng chức quyền, cơ hội để “đục nước béo cò”.
Do vậy, ngăn chặn nạn hối lộ, tham nhũng, làm trong sạch Đảng và bộ máy
nhà nước trở thành nhiệm vụ cấp thiết, đồng thời cũng là cuộc chiến đầy
cam go, quyết liệt và hết sức phức tạp, đòi hỏi sự nỗ lực, quyết tâm
cao của toàn Đảng, của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội.
Ba là, căn bệnh kiêu ngạo cộng sản; vô tổ chức, vô kỷ luật.
Theo V.I. Lê-nin, bệnh kiêu ngạo cộng sản thể hiện ở chỗ: “một người ở
trong đảng cộng sản, và chưa bị thanh trừng ra khỏi đảng, tưởng rằng chỉ
bằng những pháp lệnh cộng sản là có thể giải quyết được tất cả mọi
nhiệm vụ của mình” chủ yếu thông qua “công tác giáo dục chính trị. Hoàn
toàn không phải thế! Đấy chỉ là tính kiêu ngạo cộng sản chủ nghĩa mà
thôi”(13). Do kiêu ngạo cộng sản, họ thường tự cao, tự đại và
khi mắc khuyết điểm, sai lầm thì tìm mọi cách che giấu, lấp liếm, không
dám thừa nhận và chính căn bệnh này sẽ khiến cho đảng bị tiêu vong.
V.I. Lê-nin nhấn mạnh: “Tất cả những đảng cách mạng đã bị tiêu vong cho
tới nay, đều bị tiêu vong vì tự cao tự đại, vì không biết nhìn rõ cái gì
tạo nên sức mạnh của mình, và vì sợ sệt không dám nói lên những nhược
điểm của mình”(14).
Trong
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội từ một nước lạc hậu, sản xuất nhỏ,
“những tập tục của xã hội cũ” còn tồn tại dai dẳng, dẫn đến thói vô tổ
chức, vô kỷ luật. Biểu hiện của nó trong Đảng và trong bộ máy nhà nước
là phủ nhận tính đảng và kỷ luật đảng, mắc những tính xấu của giai cấp
tiểu tư sản là tính tản mạn, tính bấp bênh, không thể kiên quyết, đoàn
kết, thống nhất hành động được. Những thói hư, tật xấu này tồn tại dai
dẳng do “Sức mạnh của tập quán ở hàng triệu và hàng chục triệu người là
một sức mạnh ghê gớm nhất”(15). Những biểu hiện tiêu cực này
mà lan rộng trong phong trào, thì sẽ “hoàn toàn tước vũ khí của giai cấp
vô sản, làm lợi cho giai cấp tư sản”. Đây là một cuộc đấu tranh dai
dẳng, phức tạp vì “Chiến thắng bọn đại tư bản tập trung còn nghìn lần dễ
hơn là “chiến thắng” hàng triệu và hàng triệu tiểu chủ; mà những người
này thì do hoạt động hàng ngày của họ, hoạt động quen thuộc, khó thấy,
khó nhận ra, có tác dụng... làm cho giai cấp tư sản phục hồi”(16).
Thứ ba, chỉ ra phương thức xây dựng Đảng và Nhà nước trong sạch, vững mạnh, hoạt động hiệu quả.
Trên
cơ sở nhận diện rõ những biểu hiện tiêu cực trong đội ngũ đảng viên và
cán bộ chính quyền, V.I. Lê-nin đã chỉ ra những phương thức cơ bản để
xây dựng Đảng và Nhà nước trong sạch, vững mạnh, hoạt động hiệu quả. Đó
là:
Bảo đảm phương châm “thà ít mà tốt”, tinh gọn, hiệu quả.
Thực hiện phương châm này đòi hỏi công tác xây dựng Đảng và đổi mới,
cải cách bộ máy nhà nước, nhất là ở các cơ quan trung ương phải coi
trọng chất lượng, không chạy đua theo số lượng; do vậy, cần rà soát thực
hiện sáp nhập, tinh gọn bộ máy, bảo đảm chất lượng kiểu mẫu và phải
hoạt động phù hợp với trình độ khoa học hiện đại. Đội
ngũ cán bộ, đảng viên phải được tuyển chọn kỹ lưỡng theo những tiêu
chuẩn nghiêm ngặt cả về số lượng và chất lượng, có bản lĩnh chính trị
vững vàng, được trang bị lý luận cách mạng, có phẩm chất đạo đức tốt và
“những phần tử ưu tú ấy phải không sợ thừa nhận bất cứ một khó khăn nào
và không lùi bước trước bất cứ một cuộc đấu tranh nào để đạt được mục
đích”(17).
Thực hành nghiêm các nguyên tắc xây dựng Đảng. Bảo đảm nguyên tắc tập trung dân chủ,
vì đó là thuộc tính cơ bản của đảng cách mạng đã được V.I. Lê-nin rút
ra từ trong thực tiễn cách mạng; theo đó, “chế độ tập trung tuyệt đối và
kỷ luật hết sức nghiêm minh của giai cấp vô sản là một trong những điều
kiện căn bản để chiến thắng giai cấp tư sản”(18). Yêu cầu đặt ra là phải thực hành kỷ luật đảng
hết sức nghiêm minh, duy trì kỷ luật sắt và mỗi cán bộ, đảng viên phải
ra sức phấn đấu trau dồi tri thức, rèn luyện tác phong, tăng cường phẩm
chất đạo đức cộng sản.
Thực hành nghiêm tự phê bình và phê bình để
tạo sự đoàn kết thống nhất trong Đảng, để Đảng luôn được củng cố và
phát triển. Tự phê bình và phê bình phải là một nội dung quan trọng,
thường xuyên trong sinh hoạt đảng. V.I. Lê-nin viết: “Công khai thừa
nhận sai lầm, tìm ra nguyên nhân sai lầm, phân tích hoàn cảnh đã đẻ ra
sai lầm... - đó là dấu hiệu chứng tỏ một đảng nghiêm túc, đó là đảng làm
tròn những nghĩa vụ của mình, đó là giáo dục và huấn luyện giai cấp, rồi đến quần chúng”(19).
Xây dựng cơ chế kiểm soát quyền lực chặt chẽ, hiệu quả. Công
tác này nếu không được thực hiện tốt thì vô cùng nguy hại, vì “Nếu
quyền lực chính trị trong nước nằm trong tay một giai cấp có quyền lợi
phù hợp với quyền lợi của đa số, thì mới có thể thực hiện việc điều
khiển công việc quốc gia thực sự theo đúng nguyện vọng của đa số. Nhưng
nếu quyền lực chính trị nằm trong tay một giai cấp có quyền lợi khác với
quyền lợi của đa số, thì việc điều khiển công việc quốc gia theo nguyện
vọng của đa số không khỏi trở thành một sự lừa gạt, hoặc đưa đến chỗ
đàn áp đa số ấy”(20).
Để
kiểm soát quyền lực, phải xây dựng hệ thống pháp luật khoa học, phù hợp
nhằm bảo đảm hoạt động của Đảng và của Nhà nước theo đúng quy định của
Hiến pháp và pháp luật, đồng thời thực thi dân chủ của nhân dân. Đây là
một tất yếu khách quan và là một nhiệm vụ cấp thiết đặt ra. Việc kiểm
soát quyền lực còn được thực hiện bằng công tác tổ chức. Đảng
kiểu mới, Nhà nước kiểu mới phải được tổ chức chặt chẽ, khoa học, luôn
thống nhất về tổ chức, không chấp nhận sự phân tán, ô hợp và bè phái mất
đoàn kết nội bộ. V.I. Lê-nin chỉ rõ: “Trong cuộc đấu tranh để giành
chính quyền, giai cấp vô sản không có vũ khí nào khác hơn là sự tổ
chức... sự thống nhất tư tưởng của giai cấp vô sản dựa trên cơ sở những
nguyên lý chủ nghĩa Mác được củng cố bằng sự thống nhất vật chất của tổ
chức tập hợp hàng triệu người lao động thành một đạo quân của giai cấp
công nhân”(21); đồng thời, phải làm tốt công tác kiểm tra, kiểm soát đối
với tổ chức, con người và công việc. Buông lỏng kiểm tra cũng có nghĩa
là buông lỏng lãnh đạo và quản lý; từ đó, dẫn đến sự suy yếu tổ chức và
bộ máy, sự hư hỏng và thoái hóa, biến chất của cán bộ, đảng viên.
Hơn nữa, để kiểm soát tốt quyền lực, cần thực hành dân chủ rộng rãi, gắn bó chặt chẽ với nhân dân và phát huy vai trò giám sát của nhân dân đối
với hoạt động của Đảng và Nhà nước. Đây là một phương thức hết sức quan
trọng, bởi vì sự thành bại của cách mạng phụ thuộc vào niềm tin, vào sự
đồng thuận của nhân dân đối với sự lãnh đạo của Đảng và quản lý của Nhà
nước.
Đồng thời, Đảng,
Nhà nước phải phòng ngừa và kiên quyết đấu tranh chống các biểu hiện
tiêu cực, suy thoái về tư tưởng chính trị và về đạo đức; thực hành
nghiêm chế độ bãi miễn bất cứ lúc nào đối với những người được bầu ra,
nhưng thoái hóa, biến chất. Theo V.I. Lê-nin, cần phải đuổi ra khỏi Đảng
những kẻ gian giảo, những đảng viên cộng sản đã quan liêu hóa, không
trung thực, nhu nhược để làm trong sạch Đảng và bộ máy nhà nước.
Ý nghĩa đối với việc tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh ở Việt Nam hiện nay
Thấm
nhuần tư tưởng của V.I. Lê-nin, vận dụng sáng tạo vào điều kiện cụ thể
của Việt Nam, trong suốt quá trình lãnh đạo, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn
coi trọng công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị trong
sạch, vững mạnh trên cơ sở phát huy ý chí, sức mạnh đại đoàn kết toàn
dân tộc kết hợp với sức mạnh thời đại để xây dựng đất nước phồn vinh,
hạnh phúc. Điều này được cụ thể hóa và thường xuyên được bổ sung, phát
triển trong chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của
Nhà nước và được thể hiện tập trung trong Kết luận, Nghị quyết Hội nghị
Trung ương 4 các khóa XI, XII và XIII của Đảng. Nghị quyết của Đảng đã
được triển khai thực hiện nghiêm túc, đi vào thực tiễn cuộc sống và tạo
ra nhiều chuyển biến tích cực trong hoạt động của Đảng, Nhà nước và xã
hội; qua đó, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, đồng
thời tạo sự đoàn kết, nhất trí giữa “ý Đảng, lòng dân” và góp phần tăng
cường, củng cố niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và chế độ.
Tuy
nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, vẫn còn nhiều hạn chế, khuyết
điểm, như “tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối
sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” còn diễn biến phức tạp”(22);
một bộ phận cán bộ, đảng viên, trong đó có cán bộ cấp chiến lược và
người đứng đầu có biểu hiện phai nhạt lý tưởng, không kiên định con
đường xã hội chủ nghĩa, sa sút ý chí chiến đấu, rơi vào chủ nghĩa cá
nhân, vi phạm kỷ luật đảng, vi phạm pháp luật; cơ chế kiểm soát quyền
lực ở nhiều lĩnh vực, nhất là đối với những người có chức, có quyền
trong Đảng và trong hệ thống chính trị chưa thực sự hiệu quả; hoạt động
giám sát của các tổ chức chính trị - xã hội và của nhân dân chưa phát
huy đầy đủ, hiệu quả. Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nhấn mạnh: “Từ suy
thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống dẫn tới “tự diễn biến”,
“tự chuyển hóa” chỉ là một bước ngắn, thậm chí rất ngắn, nguy hiểm khôn
lường, có thể dẫn tới tiếp tay hoặc cấu kết với các thế lực xấu, thù
địch, cơ hội, phản bội lại lý tưởng và sự nghiệp cách mạng của Đảng và
dân tộc”(23).
Thực
tế đó cho thấy, những chỉ dẫn của V.I. Lê-nin đến nay còn nguyên giá
trị và là vấn đề vô cùng hệ trọng. Do vậy, công tác xây dựng, chỉnh đốn
Đảng và hệ thống chính trị cần được tăng cường theo tư tưởng, chỉ dẫn
của V.I. Lê-nin và của Chủ tịch Hồ Chí Minh, với những giải pháp cơ bản
sau đây:
Một
là, nâng cao nhận thức về tầm quan trọng của công cuộc xây dựng, chỉnh
đốn Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh; tuyên truyền,
triển khai sâu rộng nội dung Nghị quyết, Kết luận của Hội nghị Trung
ương 4 khóa XIII của Đảng.
Nhận
thức sâu sắc tầm quan trọng của vấn đề này, tại Hội nghị Trung ương 4
khóa XIII, Đảng ta đã ban hành Kết luận số 21-KL/TW, ngày 25-10-2021,
“Về đẩy mạnh xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị; kiên quyết
ngăn chặn, đẩy lùi, xử lý nghiêm cán bộ, đảng viên suy thoái về tư tưởng
chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển
hóa””. Để đưa chủ trương, đường lối của Đảng vào cuộc sống, một mặt,
phải coi trọng việc học tập, nghiên cứu, tiếp tục bổ sung, phát triển
chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, vận dụng sáng tạo vào sự
nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta hiện nay; mặt khác,
cấp ủy các cấp, các tổ chức đảng phải nhanh chóng xây dựng kế hoạch tổ
chức tuyên truyền, học tập, quán triệt, thực hiện Nghị quyết, Kết luận
đến toàn thể cán bộ, đảng viên và nhân dân; qua đó, nhận thức đầy đủ,
sâu sắc mục đích, yêu cầu, nội dung của Nghị quyết, Kết luận đồng thời
nắm vững những tư tưởng chỉ đạo, những nhiệm vụ trọng tâm cần thực hiện.
Đổi mới nội dung, phương thức và nâng cao chất lượng công tác giáo dục
chính trị, tư tưởng, tạo sự chuyển biến tích cực trong nhận thức và hành
động của cán bộ, đảng viên và nhân dân. Thực hiện nghiêm tự phê bình và
phê bình từ Trung ương đến từng chi bộ, khắc phục tình trạng nể nang,
né tránh, “dĩ hòa vi quý”.
Hai
là, quán triệt, vận dụng sáng tạo tư tưởng và phương pháp của V.I.
Lê-nin để tiếp tục đẩy mạnh xây dựng Đảng và hệ thống chính trị về tổ
chức.
Tiếp
tục đổi mới, hoàn thiện tổ chức bộ máy và nâng cao hiệu quả hoạt động
của hệ thống chính trị theo tinh thần “thà ít mà tốt”, vì “Chỉ có làm
cho bộ máy của chúng ta trong sạch đến tột mức, chỉ có giảm đến mức tối
đa những cái không tuyệt đối cần thiết, chúng ta mới có thể đứng vững
được”(24).
Xây
dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp, nhất là cấp chiến lược
và người đứng đầu vừa có đức, vừa có tài, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ của
công cuộc đổi mới đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Xác định rõ
thẩm quyền, trách nhiệm cá nhân người đứng đầu cấp ủy, chính quyền
trong mối quan hệ gắn bó, hài hòa với tập thể cấp ủy, chính quyền, cơ
quan, đơn vị và với nhân dân.
Ba
là, phát huy vai trò, trách nhiệm của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ
chức chính trị - xã hội và vai trò làm chủ của nhân dân trong công tác
xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh.
V.I.
Lê-nin đã từng chỉ rõ: “Nếu quyền lực chính trị trong nước nằm trong
tay một giai cấp có quyền lợi phù hợp với quyền lợi của đa số, thì mới
có thể thực hiện việc điều khiển công việc quốc gia thực sự theo đúng
nguyện vọng của đa số”(25). Do vậy, Đảng phải thường xuyên
liên hệ gần gũi, hòa mình với quần chúng, thực hành dân chủ rộng rãi,
thu hút đông đảo nhân dân tham gia vào việc giám sát hoạt động của Đảng
và hệ thống chính trị.
Việc
giám sát quyền lực của nhân dân đối với hệ thống chính trị được thực
hiện chủ yếu thông qua cơ chế hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và
các tổ chức chính trị - xã hội. Do vậy, “Mặt trận Tổ quốc và các đoàn
thể nhân dân tiếp tục đổi mới nội dung và phương thức hoạt động, vận
động đông đảo nhân dân tham gia các phong trào thi đua yêu nước, phát
huy ngày càng tốt hơn vai trò đại diện quyền và lợi ích hợp pháp, chính
đáng của đoàn viên, hội viên và nhân dân; chủ động tham gia giám sát và
phản biện xã hội; làm tốt vai trò cầu nối giữa Đảng, Nhà nước và nhân
dân; tham gia xây dựng Đảng, Nhà nước và hệ thống chính trị, góp phần
tích cực vào những thành tựu chung của đất nước”(26).
Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội cần chủ động
đổi mới phương thức hoạt động nhằm phát huy hiệu quả vai trò của nhân
dân trong tham gia vào công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu
cực, thực hành tiết kiệm, nhất là giám sát việc tu dưỡng, rèn luyện đạo
đức, tác phong, lối sống và vai trò nêu gương của đội ngũ cán bộ, đảng
viên trong hệ thống chính trị; thực hiện tốt phương châm “dân biết, dân
bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”.
Bốn
là, kết hợp giữa nêu gương người tốt, việc tốt với chủ động phòng ngừa
và kiên quyết đấu tranh xử lý nghiêm sự suy thoái về tư tưởng chính trị,
đạo đức, lối sống và những hành vi tham nhũng, tiêu cực.
Tiếp
tục thực hiện tốt Kết luận số 01-KL/TW, ngày 18-5-2021, của Bộ Chính
trị, “Về tiếp tục thực hiện Chỉ thị số 05-CT/TW của Bộ Chính trị “Về đẩy
mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh””,
coi đây là công việc thường xuyên, hằng ngày của mỗi tổ chức, cá nhân,
đơn vị với nhiều nội dung phong phú và thiết thực, gắn với chức trách,
nhiệm vụ của từng cán bộ, đảng viên. Đồng thời, tiếp tục thực hiện tốt
Quy định số 08-QĐi/TW, ngày 25-10-2018, của Ban Chấp hành Trung ương, về
“Trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, trước hết là Ủy viên Bộ
Chính trị, Ủy viên Ban Bí thư, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương”. Theo
đó, chú trọng nêu gương người tốt, việc tốt; đổi mới phong cách, lề lối
làm việc, nói đi đôi với làm, thực hiện nghiêm túc Quy định số 37-QÐ/TW,
ngày 25-10-2021, của Ban Chấp hành Trung ương, “Về những điều đảng viên
không được làm”.
Chủ
động phòng ngừa và kiên quyết đấu tranh với hoạt động chống phá của các
thế lực thù địch, phản động, phần tử cơ hội, bất mãn chính trị dưới mọi
hình thức. Xử lý nghiêm những cán bộ, đảng viên thoái hóa, biến chất,
“tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, có tư tưởng cục bộ, bè phái, “lợi ích
nhóm”, hoặc lợi dụng các phương tiện thông tin đại chúng, mạng xã hội...
để xuyên tạc, kích động, gây mất đoàn kết nội bộ.
Xây
dựng các lực lượng đấu tranh, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng vững
mạnh, đủ sức phản bác các quan điểm sai trái, thù địch, phản động, làm
thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn, hoạt động chống phá Đảng và Nhà nước, qua
đó góp phần xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh.
Hiện đại hóa các biện pháp kỹ thuật để phục vụ hiệu quả cho công tác đấu
tranh; đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình độ nghiệp vụ cho các lực
lượng chuyên trách trong công tác này.
Năm là, chú trọng hoàn thiện hệ thống pháp luật và cơ chế kiểm soát quyền lực trong các lĩnh vực quan trọng, then chốt.
Chú
trọng hoàn thiện hệ thống pháp luật đầy đủ, đồng bộ, thống nhất, khả
thi, minh bạch, tạo động lực thúc đẩy đổi mới, sáng tạo. Xây dựng nền
hành chính nhà nước phục vụ, kiến tạo phát triển, dân chủ, pháp quyền,
chuyên nghiệp, hiện đại, trong sạch, vững mạnh, hiệu quả.
Kiểm
soát chặt chẽ quyền lực trong từng khâu của công tác cán bộ, nhất là
đối với người đứng đầu cấp ủy đồng thời là thủ trưởng cơ quan, đơn vị,
đi đôi với chống chạy chức, chạy quyền. Giữ vững kỷ luật, kỷ cương; tăng
cường kiểm tra, giám sát, không để lọt những người có biểu hiện cơ hội
chính trị, tham vọng quyền lực vào đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý các
cấp; đồng thời, kịp thời phát hiện, bồi dưỡng, bổ sung những cán bộ,
đảng viên thực sự có đức, có tài, dám nghĩ, dám làm, dám đột phá, hành
động vì lợi ích chung, có uy tín cao và thực sự tiên phong, gương mẫu,
là hạt nhân đoàn kết.
Từ
những chỉ dẫn của V.I. Lê-nin, Đảng Cộng sản Việt Nam đã vận dụng sáng
tạo, bổ sung, phát triển phù hợp với điều kiện của đất nước nhằm không
ngừng tăng cường hiệu quả công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống
chính trị trong sạch, vững mạnh, tạo sự thống nhất giữa “ý Đảng, lòng
dân” để thực hiện mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn
minh”, đất nước ta ngày càng phồn vinh, hạnh phúc./.
PGS, TS. BÙI THỊ NGỌC LAN