Tư tưởng đổi mới của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong điều kiện đảng cầm quyền qua các tác phẩm tiêu biểu
Là
người sáng lập và rèn luyện Đảng ta, Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt quan
tâm tới công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, làm cho Đảng thực sự trong
sạch để thực sự vững mạnh, thực sự là Đảng chân chính cách mạng theo học
thuyết đảng kiểu mới của V.I. Lê-nin.
Tư
tưởng đổi mới của Người được hình thành từ rất sớm, bởi Người rất nhạy
cảm với cái mới, từ tư duy đổi mới đến hành động đổi mới sáng tạo, quyết
tâm thực hiện sự thay đổi trong cuộc hành trình tìm đường cứu nước, biến
khát vọng giải phóng dân tộc thành hiện thực theo hệ giá trị Độc lập -
Tự do - Hạnh phúc cho Tổ quốc - Dân tộc và nhân dân. Người đã lao động,
học tập, tranh đấu suốt 30 năm để tìm chân lý cách mạng, với hoài bão, ý
chí, nghị lực phi thường. Nguyễn Tất Thành - Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí
Minh từ tìm đường, nhận đường, chọn đường đã trở thành người dẫn đường cho dân tộc ta trên “Đường Cách mệnh” để thực hành lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
Bác Hồ với công nhân xe lửa Gia Lâm_Ảnh: Tư liệu
Khi Đảng chưa ra đời, năm 1927, Nguyễn Ái Quốc đã viết “Đường Cách mệnh”.
Đây là tập bài giảng lý luận cách mạng dùng cho các lớp huấn luyện cán
bộ do Người tổ chức và trực tiếp giảng dạy tại Quảng Châu (Trung Quốc).
Có thể xem “Đường Cách mệnh” là một trong những tác phẩm đầu
tiên truyền bá chủ nghĩa Mác - Lê-nin vào Việt Nam, sau khi Nguyễn Ái
Quốc trở thành người cộng sản Việt Nam đầu tiên, khi Người tham gia Đại
hội Tua ở Pháp, năm 1920, lúc đó Nguyễn Ái Quốc mới 30 tuổi. Người bỏ
phiếu tán thành lập trường của Quốc tế III (Quốc tế Cộng sản), cùng với
các đồng chí cộng sản Pháp. Đảng Cộng sản Pháp ra đời năm 1920 tại Đại
hội lịch sử này và Nguyễn Ái Quốc được thừa nhận là một trong những
người đồng sáng lập. Sau đó, Người đã có những đóng góp to lớn trong
việc tổ chức ban nghiên cứu các vấn đề thuộc địa, xác định vai trò và
trách nhiệm của đảng cộng sản ở chính quốc cần phải ủng hộ, quan tâm,
giúp đỡ phong trào cách mạng ở các nước thuộc địa, chống chủ nghĩa đế
quốc, chủ nghĩa thực dân để giải phóng dân tộc, giành độc lập. Đó
là tư tưởng đổi mới của Người, khi tiếp thu tư tưởng của V.I. Lê-nin về
quyền tự quyết của các dân tộc, từ luận cương về dân tộc và các vấn đề
thuộc địa.
“Đường Cách mệnh”
là tác phẩm đặt nền móng tư tưởng, lý luận cho sự ra đời của Đảng Cộng
sản Việt Nam vào năm 1930, do Người sáng lập. Bản Chính cương vắn tắt,
Sách lược vắn tắt, Điều lệ vắn tắt của Đảng cũng do Người trực tiếp soạn
thảo, cùng với thư kêu gọi các tầng lớp dân chúng ủng hộ Đảng, làm cách
mạng giải phóng do Đảng lãnh đạo. Tư tưởng đổi mới của lãnh tụ Nguyễn
Ái Quốc - Hồ Chí Minh thể hiện nổi bật ở các luận điểm được đề cập trong
tác phẩm “Đường Cách mệnh”. Người xác định: “Cách mệnh là phá cái cũ đổi ra cái mới, phá cái xấu đổi ra cái tốt”(1). Cách mạng phải đến
nơi (tức là triệt để) theo tấm gương Cách mạng Tháng Mười Nga, năm 1917
do V.I. Lê-nin và đảng kiểu mới lãnh đạo. “Trước hết phải có đảng cách
mệnh”, “Đảng muốn vững thì phải có chủ nghĩa làm cốt”, “Đảng mà không có
chủ nghĩa cũng như người không có trí khôn”, “Bây giờ học thuyết nhiều,
chủ nghĩa nhiều, nhưng chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách
mệnh nhất là chủ nghĩa Lênin”(2). Dù hết sức dung dị trong diễn đạt, nhưng tư tưởng đổi mới sâu sắc của Người đã ở tầm kinh điển.
Một trong những điểm đặc sắc của “Đường Cách mệnh”
là ở chỗ, mở đầu tác phẩm lý luận này, Nguyễn Ái Quốc đặt lên hàng đầu
vấn đề tư cách của người cách mạng. Người nhấn mạnh: “Giữ chủ nghĩa cho
vững” và phải “Ít lòng tham muốn về vật chất”(3). Có như vậy,
đảng cách mạng, người cách mạng mới làm tròn sứ mệnh cao cả của mình là
thực hiện công cuộc giải phóng dân tộc, làm cách mạng thành công, quyền
giao vào tay dân chúng số nhiều, tức là công - nông và đông đảo quần
chúng lao động bị áp bức. Sự nghiệp vĩ đại ấy cần có sự soi đường của lý
luận khoa học và cách mạng, cần có bản lĩnh chính trị vững vàng, kiên
định của những người thực hành lý tưởng, lại phải có phẩm chất đạo đức
trong sáng, biết hy sinh, tận tâm, tận lực phục vụ dân chúng. Sức mạnh
ấy, là tất yếu cần thiết để vượt qua chủ nghĩa cá nhân mà Người nói rõ,
đó là “giặc nội xâm” nguy hiểm nhất.
Theo tư tưởng của Người trong tác phẩm “Đường Cách mệnh”,
chỉ có sự kết hợp thống nhất và nhuần nhuyễn giữa trí tuệ khoa học với
đạo đức cách mạng và bản lĩnh chính trị của đảng cách mạng, của người
cách mạng, mới đủ sức tập hợp dân chúng thành lực lượng, mới giác ngộ và thức tỉnh dân chúng, đoàn kết họ, quy tụ họ thành phong
trào theo đảng tiên phong, đưa cách mạng tới thành công. Sớm nhận ra
vai trò của đạo đức cách mạng và sức mạnh của đoàn kết, đại đoàn kết
toàn dân tộc, gắn liền với đoàn kết quốc tế trong công cuộc cách mạng
giải phóng theo chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tấm gương của Cách mạng Tháng
Mười Nga, đó là sự nhạy cảm, sáng suốt, tầm nhìn xa trông rộng của
Nguyễn Ái Quốc. Đó cũng là nét nổi bật, đặc trưng cho tư tưởng đổi mới
của Người, ngay từ khi Đảng còn chưa ra đời.
Nhờ
có tư tưởng đổi mới ấy, như kim chỉ nam hành động, như ánh sáng soi
đường mà Nguyễn Ái Quốc cùng với Đảng Cộng sản Việt Nam do Người sáng
lập và rèn luyện, đã lãnh đạo toàn thể dân tộc Việt Nam làm Cách mạng
Tháng Tám năm 1945 thắng lợi, lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa,
với bản Tuyên ngôn Độc lập bất hủ. Đó là Tuyên ngôn
lập quốc và dựng nước Việt Nam mới trong lịch sử Việt Nam hiện đại -
Thời đại Hồ Chí Minh. Tầm vóc vĩ đại về tư tưởng đổi mới của Chủ tịch Hồ
Chí Minh được Cách mạng Tháng Tám năm 1945 chứng thực ở chỗ, thắng lợi
của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 là thắng lợi của tư tưởng, của đường
lối cách mạng và phương pháp cách mạng Hồ Chí Minh, giải quyết thành
công mối quan hệ giữa dân tộc và giai cấp, giữa giải phóng dân tộc và
giải phóng giai cấp khi Đảng ta trở thành đảng cầm quyền.
Trong
thế kỷ XX, sau khi Cách mạng Tháng Mười Nga nổ ra và giành thắng lợi
(ngày 7-11-1917), là thắng lợi Cách mạng Tháng Tám năm 1945 của Việt
Nam. Sau Đảng Cộng sản Liên Xô ở vị trí đảng cộng sản cầm quyền là sự
xác lập vị trí cầm quyền của Đảng ta. Với cách mạng Việt Nam, đó là bước
ngoặt quan trọng, chứng thực thiên tài tư tưởng và tổ chức của Chủ tịch
Hồ Chí Minh, một đóng góp vô giá vào phong trào cách mạng thế giới, làm
phong phú và sâu sắc thêm kho tàng lý luận kinh điển của chủ nghĩa Mác -
Lê-nin. Hai mươi năm sau kể từ khi viết tác phẩm “Đường Cách mệnh”, và hai năm sau, kể từ khi Đảng ta trở thành đảng cầm quyền, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc”,
năm 1947. Tư tưởng đổi mới của Người thể hiện trong tác phẩm quan trọng
này, nổi bật ở hai điểm mang tính khái quát lý luận, cụ thể như sau:
Thứ nhất,
đổi mới là cần thiết, tất yếu do sự phát triển của cách mạng đặt ra,
khi Đảng lãnh đạo và cầm quyền đứng trước những biến chuyển phức tạp của
tình hình mới, hoàn cảnh mới, nhiệm vụ mới. Chủ tịch Hồ Chí Minh dùng
chữ “sửa đổi”, tức là “đổi mới”. Đó là nhận thức và hành động
của Đảng, có trọng trách dẫn dắt và thúc đẩy phong trào cách mạng tiến
lên trước những thử thách, bước ngoặt. Như Người đã định nghĩa về cách
mạng là “phá cái cũ, đổi ra cái mới”, “phá cái xấu đổi ra cái tốt”, thì
“sửa đổi”, “đổi mới”, thực sự mang tầm vóc cách mạng, thực sự là một
cuộc cách mạng.
Năm
1947, cuộc kháng chiến toàn quốc chống thực dân Pháp xâm lược trở lại,
đã bắt đầu. Trước đó, ngày 19-12-1946, Người đã ra lời kêu gọi “Toàn
quốc kháng chiến”, với một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta thà hy sinh tất
cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”(4).
Nhà nước cách mạng non trẻ vừa mới ra đời, đã phải đứng trước tình thế
hiểm nghèo thù trong, giặc ngoài; vận nước, vận Đảng ở trong thế “nghìn
cân treo sợi tóc”. Cả nước lên đường, toàn dân đánh giặc, quyết tử cho
Tổ quốc quyết sinh. Cơ quan đầu não của Đảng và Chính phủ chuyển lên
Việt Bắc, chỉ huy cuộc kháng chiến trường kỳ, toàn dân, toàn diện. Trước
đây, nhờ Việt Bắc mà cách mạng thành công, nay lại nhờ Việt Bắc mà
kháng chiến thắng lợi. Dự cảm sáng suốt của Chủ tịch Hồ Chí Minh những
ngày đầu của chính thể mới, đã trở nên hoàn toàn chính xác. Từ tháng
11-1945, với một sách lược chính trị độc đáo, Đảng đã tuyên bố “tự giải
tán”, nhưng về thực chất là rút vào hoạt động bí mật, Đảng vẫn lãnh đạo
và cầm quyền bằng những phương thức phù hợp. Trong hoàn cảnh ấy, Người
đã viết về Đảng trong tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc”, với hình
thức diễn đạt là “ĐOÀN THỂ’; tuy nhiên, trong nội bộ Đảng, Người vẫn
nói về Đảng, là một đảng chân chính cách mạng. Trong những năm kháng
chiến chống thực dân Pháp xâm lược, có lúc Đảng còn được biểu đạt với
tên gọi là “Hội nghiên cứu chủ nghĩa Mác”. Đến năm 1951, từ Đại hội II,
Đảng ra hoạt động công khai với tên gọi “Đảng Lao động Việt Nam”, mà về
bản chất vẫn là Đảng Cộng sản, như Người đã xác định từ đầu, khi thành
lập Đảng ngày 3-2-1930.
Nhiệm
vụ mới đặt ra lúc này là “vừa kháng chiến vừa kiến quốc”, với niềm tin
và quyết tâm chính trị rất cao “kháng chiến tất thắng”, để “kiến quốc
tất thành”. Chủ tịch Hồ Chí Minh là một nhà cách mạng kiên định, linh
hồn của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, có trọng trách tối cao trong
lãnh đạo toàn Đảng, toàn dân, toàn quân “kháng chiến kiến quốc”. Chủ
tịch Hồ Chí Minh là hiện thân sinh động nhất của tư tưởng và hành động
đổi mới; do đó, phải kịp thời “sửa đổi”, kịp thời “đổi mới”, thấm nhuần
sâu sắc và thực hành sáng tạo chỉ dẫn của V.I. Lê-nin; một khi tình hình
đã thay đổi, nhiệm vụ và yêu cầu mới đã đặt ra, thì không bao giờ giải
quyết hết được những nhiệm vụ của ngày hôm nay, nếu chỉ dựa trên hiểu
biết, kinh nghiệm và phương pháp của ngày hôm qua.
Không phải ngẫu nhiên mà cùng trong năm 1947, giữa bao bộn bề công việc phải lo toan, Người tập trung viết tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc”, và trước đó, tháng 3-1947, Người viết tác phẩm “Đời sống mới”,
với bút danh Tân Sinh. Cả hai tác phẩm này đều nổi bật tư duy đổi mới,
hành động đổi mới, ra sức giáo dục, rèn luyện đội ngũ cán bộ cả về phương pháp và phong cách lãnh đạo theo yêu cầu khoa
học, dân chủ và sáng tạo trên nền tảng cốt yếu là ra sức thực hành đạo
đức cách mạng, cần kiệm liêm chính, chí công vô tư, thực hành dân vận,
thực hành đoàn kết, đại đoàn kết, gắn liền quyết tâm với tín tâm và đồng tâm
để quân, dân đồng lòng sản xuất, chiến đấu, hậu phương thi đua với tiền
phương, tất cả cho chiến đấu, tất cả để chiến thắng quân thù. Muốn vậy,
phải kịp thời “sửa đổi”, tức là “đổi mới” từ cách nghĩ, đến cách làm,
từ tổ chức đến cán bộ, từ Đảng đến nhân dân, đã cùng mục đích thì cùng
phấn đấu, hy sinh cho mục đích trở thành hiện thực.
Thứ hai,
đổi mới phải chọn đúng khâu đột phá, tên tác phẩm của Người đã thể hiện
rõ ràng tư tưởng và phương pháp đó; “Lối làm việc” tức là “phương
pháp”, “cách thức”. Đây là điều cốt yếu phải đổi mới, hơn nữa, Người còn
xác định điều hệ trọng: “PHẢI SỬA ĐỔI LỐI LÀM VIỆC CỦA ĐẢNG”(5). Mệnh đề này, trong tác phẩm của Người là câu trả lời cho khâu đột phá ở đâu và của ai?
Rõ ràng, Đảng phải tự đổi mới chính mình, đổi mới phương pháp, cách
thức làm việc, tức là đổi mới phương thức lãnh đạo, cầm quyền của Đảng,
như cách nói hiện nay, sao cho Đảng ngang tầm nhiệm vụ, làm tròn sứ mệnh
của mình, phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân, đưa kháng chiến tới thắng
lợi, để kiến quốc mau thành công. Đảng tự đổi mới chính bản thân mình,
để thúc đẩy và dẫn dắt xã hội đổi mới. Muốn đổi mới, phải có dũng khí,
tự nhận thức, tự phê phán, nhìn thẳng vào sự thật, nói rõ sự thật, đánh
giá đúng sự thật, để phát hiện ra những yếu kém, khuyết điểm của mình và
quyết tâm sửa chữa. Theo đó, mở đầu tác phẩm, Người tập trung làm rõ
vấn đề “Phê bình và sửa chữa”. Đánh giá đúng những khuyết điểm
đó, Người tập trung vào những căn bệnh mà đội ngũ cán bộ, đảng viên
thường mắc phải, đó là “bệnh chủ quan”, “bệnh hẹp hòi” và “thói ba hoa”.
“Đó là ba chứng bệnh rất nguy hiểm. Nếu không chữa ngay, để nó lây ra,
thì có hại vô cùng”(6), có chung một nguồn gốc, một nguyên
nhân, do “chủ nghĩa cá nhân, khuynh hướng tham danh vọng, tham địa vị,
dìm người giỏi, bệnh hủ hóa, v.v., đều do bệnh hẹp hòi mà ra!”(7).
Chủ nghĩa cá nhân là bệnh gốc, nó đẻ ra trăm nghìn bệnh tật, thói hư
tật xấu, làm cho đội ngũ cán bộ, đảng viên hư hỏng, tổ chức suy yếu,
nguy hại tới phong trào cách mạng, mà nguy hại nhất là suy giảm lòng tin
của nhân dân với Đảng. Theo đó, đánh mất lòng tin, niềm tin của nhân
dân, là Đảng tự đánh mất sức mạnh của mình, sức mạnh tự bảo vệ và được
quần chúng nhân dân bảo vệ, mất cơ sở xã hội quan trọng nhất để cách
mạng phát triển và thắng lợi. Từ sự phê phán nghiêm khắc đó, vạch rõ
nguyên nhân để có quyết tâm sửa chữa, Chủ tịch Hồ Chí Minh phân tích và
rút ra những kinh nghiệm, những bài học thu hoạch từ thực tiễn, nhằm
nâng cao ý thức và trách nhiệm của Đảng, của đội ngũ cán bộ, đảng viên;
đặc biệt là, phải thường xuyên củng cố vững chắc mối quan hệ mật thiết
giữa Đảng với nhân dân.
Trong
đấu tranh cách mạng giải phóng dân tộc, mà có tư tưởng xa dân và không
được dân giúp đỡ, bảo vệ thì dù ai và tổ chức nào có tài giỏi mấy cũng
không làm nên điều gì. Công tác dân vận phải đặt vào tầm chiến lược,
quyết định thành công của sự nghiệp cách mạng là vì vậy. Trong những
nhân tố bảo đảm cho cách mạng thành công, thì công tác tổ chức và chất
lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên là nhân tố cơ bản, quyết định nhất. Do
đó, cách mạng phát triển thuận lợi hoặc khó khăn, thành công hay thất
bại, suy đến cùng là do phẩm chất và năng lực của cán bộ quyết định; bởi
“cán bộ là cái gốc của mọi công việc./ Vì vậy, huấn luyện cán bộ là
công việc gốc của Đảng”(8). Đây là những tổng kết thực tiễn
rất quan trọng để phát triển lý luận cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Người đặt cơ sở khoa học chính xác và thiết thực nhất cho công tác xây
dựng, chỉnh đốn Đảng, nhất là trong điều kiện Đảng cầm quyền. Từ đó, “Sửa đổi lối làm việc”
đề cập đến “Tư cách của cán bộ, đảng viên”, “Tư cách của Đảng” và vạch
ra hệ thống 12 điều cần hiểu đúng, làm đúng, nhất thiết không được xem
nhẹ một điều nào. Đó là điều kiện để Đảng thật vững bền, là quan điểm,
nguyên tắc và phương pháp “xây dựng đảng chân chính cách mạng” - 12
điều, vẻn vẹn trong 456 từ, mà toát lên lý luận xây dựng đảng cầm quyền,
có giá trị và ý nghĩa về lý luận của Đảng Cộng sản Việt Nam cầm quyền,
như một tất yếu cô đọng về học thuyết xây dựng, chỉnh đốn Đảng của Chủ
tịch Hồ Chí Minh.
Tác phẩm còn dành một dung lượng lớn để nói về cách
lãnh đạo, cách đánh giá, phát hiện, huấn luyện cán bộ, bố trí cán bộ,
kiểm soát cán bộ, bảo vệ cán bộ, chính sách đối với cán bộ. Kết thúc tác
phẩm, Người nói một cách thấm thía về “bệnh ba hoa” và “cách chữa bệnh
ba hoa” trong cách nói và viết của cán bộ, rộng ra là thái độ và trách
nhiệm của cán bộ với nhân dân. Như một người thầy thuốc, Người đã “khám
bệnh” vô cùng kỹ lưỡng, “bắt mạch kê đơn” vô cùng thiết thực, chính xác
để giúp cho việc chữa bệnh đối với những người mang bệnh thật sự có kết
quả. Hiếm có tác phẩm nào, như tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc”
được Người nói nhiều, nói kỹ tới các bệnh của đội ngũ cán bộ, đảng viên
đến thế, vừa thẳng thắn, nghiêm khắc với tất cả tinh thần trách nhiệm,
vừa tin tưởng và hy vọng rằng, đảng chân chính cách mạng biết đề cao tự phê bình và phê bình, biết dựa vào nhân dân để xây dựng Đảng, thì nhất định sẽ “tẩy sạch”, sẽ làm cho “tiệt nọc”
(chữ dùng của Chủ tịch Hồ Chí Minh); những chứng bệnh nguy hiểm, nhờ
đó, Đảng sẽ khỏe mạnh, chắc chắn, tiến bộ, trưởng thành, làm tròn sứ
mệnh vẻ vang do dân tộc ủy thác và xứng đáng với niềm tin cậy của nhân
dân, niềm tự hào của nhân dân về Đảng của mình. Rõ ràng, “Sửa đổi lối làm việc” là tác phẩm điển hình về sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa lý luận với thực tiễn, về tính chỉnh thể Tư tưởng - Đạo đức - Phong cách Hồ Chí Minh;
ở đó, những nguyên lý xây dựng, chỉnh đốn Đảng được trình bày một cách
khoa học, đầy sức thuyết phục, tầm tư tưởng sâu sắc được thể hiện một
cách giản dị, trong sáng bởi ngôn từ và văn phong. Đã hơn nửa thế kỷ
trôi qua, những vấn đề mà Người đặt ra trong tác phẩm vẫn không hề cũ, vẫn luôn luôn mới trong tình hình hiện nay đối với Đảng ta, với dân tộc và nhân dân ta.
Ủy viên Bộ Chính trị, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính thăm hỏi đời sống, sản xuất của ngư dân tại huyện
Thuận Nam, tỉnh
Ninh Thuận_Ảnh: chinhphu.vn
Thấm
nhuần sâu sắc những chỉ dẫn của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong “Sửa đổi lối
làm việc” để ra sức xây dựng, chỉnh đốn Đảng trong tình hình hiện nay
Từ nội dung toàn diện và phong phú trong tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc”,
vận dụng vào công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng hiện nay, quyết tâm làm
cho Đảng thực sự trong sạch, vững mạnh, xứng đáng là một đảng chân chính
cách mạng, lãnh đạo và cầm quyền; toàn Đảng, từng tổ chức đảng
và đội ngũ cán bộ, đảng viên, trước hết là các đảng viên giữ trọng
trách lãnh đạo, quản lý các cấp, cần phải học tập thật thấu đáo để làm
theo thật sự có hiệu quả Tư tưởng - Đạo đức - Phong cách Hồ Chí Minh trên những vấn đề cốt yếu sau đây:
Một là, phải có dũng khí tự phê bình và phê bình, sửa chữa bằng được những khuyết điểm và sai lầm.
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Cán bộ và đảng viên ta, vì bận việc hành chính hoặc quân sự, mà xao nhãng việc học tập.
Đó là một khuyết điểm rất to. Từ nay, chúng ta cần phải thiết thực học
tập, sửa chữa các khuyết điểm. Vì có tẩy sạch khuyết điểm, công việc mới
có thể tiến bộ”(9). Coi trọng việc học tập trong Đảng, Người
đã có những chỉ dẫn cụ thể việc học tập, từ tổ chức đến quy định thời
gian, từ tài liệu, cách thức học tập, thảo luận, hướng dẫn cách phê bình
đến kiểm tra, báo cáo và thực hành. Đặt vấn đề học tập ngay ở
phần mở đầu tác phẩm, Chủ tịch Hồ Chí Minh muốn nhắc nhở đội ngũ cán bộ,
đảng viên, cần coi việc học tập là để mở mang sự hiểu biết, nâng cao
nhận thức, là điều kiện cần thiết để thực hiện việc “phê bình và sửa chữa” có kết quả.
Người
yêu cầu: “Mỗi cơ quan, bộ đội, đoàn thể phải tổ chức một ủy ban học
tập, do cán bộ cao cấp lãnh đạo”, “Ủy ban này định ra kế hoạch; nghiên
cứu, thảo luận, kiểm tra và thực hành”, “Mỗi người phải đọc kỹ càng các
tài liệu, rồi tự kiểm điểm và kiểm điểm đồng chí mình, có khuyết điểm gì
và ưu điểm gì”(10). Trong thảo luận, phê bình, Người nêu rõ:
“mọi người được hoàn toàn tự do phát biểu ý kiến, dù đúng hoặc không
đúng cũng vậy”, “Những kết luận trong cuộc thảo luận phải có cấp trên
duyệt y mới là chính thức”, “Mục đích phê bình cốt để giúp nhau sửa
chữa, giúp nhau tiến bộ. Cốt để sửa đổi cách làm việc cho tốt hơn, đúng
hơn. Cốt đoàn kết và thống nhất nội bộ”(11). Người nhấn mạnh: “Phê bình việc làm, chứ không phải phê bình người”(12);
theo đó, về phương pháp tư tưởng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã giáo dục cán
bộ, đảng viên về tôn trọng tự do tư tưởng, tôn trọng quyền dân chủ của
mỗi người, đặc biệt là tôn trọng nhân cách, không xúc phạm nhân cách của
đồng chí mình trong lúc phê bình. Đó là yêu cầu về đạo đức và văn hóa
ứng xử trong tự phê bình và phê bình; có động cơ, mục đích đúng, còn
phải đi liền với phương pháp khéo thì mới có kết quả. Đây là nét tinh
tế, mà Người chỉ dẫn cho chúng ta trong xây dựng, chỉnh đốn Đảng; đòi
hỏi trong Đảng, phải chú trọng thực hành lời dạy của Người về việc học
tập, về cách tự phê bình và phê bình một cách trung thực, thẳng thắn,
thấm nhuần các chuẩn mực đạo đức và văn hóa. Kết tinh những điều ấy,
trong Di chúc, Người căn dặn: “Phải có tình đồng chí thương yêu lẫn nhau”(13);
đồng thời, khắc phục khuyết điểm, phát huy ưu điểm, đó là điều mong mỏi
thiết tha, chân thành, thường xuyên của Người đối với đội ngũ cán bộ,
đảng viên. “Mọi người phải nhớ rằng: cộng nhiều khuyết điểm nhỏ thành
một khuyết điểm to, sẽ rất có hại. Cộng nhiều ưu điểm nhỏ thành một ưu
điểm lớn, rất lợi cho Đảng và công cuộc kháng chiến”(14).
Từ
đây, Người đòi hỏi “phải sửa đổi lối làm việc của Đảng”. Theo Người:
“Cán bộ và đảng viên làm việc không đúng, không khéo, thì còn nhiều
khuyết điểm. Khuyết điểm nhiều thì thành tích ít. Khuyết điểm ít thì
thành tích nhiều. Đó là lẽ tất nhiên. Vì vậy, ngay từ bây giờ, các cơ
quan, các cán bộ, các đảng viên, mỗi người mỗi ngày phải kiên quyết tự sửa chữa, và giúp đồng chí mình sửa chữa. Phải
như thế, Đảng mới chóng phát triển, công việc mới chóng thành công”;
“Chúng ta có thể chia tất cả các khuyết điểm vào ba hạng: Khuyết điểm về
tư tưởng, tức là bệnh chủ quan./ Khuyết điểm về sự quan hệ trong Đảng với ngoài Đảng, tức là bệnh hẹp hòi./ Khuyết điểm về cách nói và cách viết, tức là ba hoa./
Đó là ba chứng bệnh rất nguy hiểm. Nếu không chữa ngay, để nó lây ra,
thì có hại vô cùng”; “Mỗi chứng bệnh sinh ra do nhiều nguyên nhân. Nhưng
kết quả nó đều làm cho người ta ốm yếu. Nguyên nhân của bệnh chủ quan
là: Kém lý luận, hoặc khinh lý luận, hoặc lý luận suông”(15). Người nhấn mạnh: “Mỗi cán bộ, mỗi đảng viên phải học lý luận, lý luận áp dụng vào công việc thực tế. Phải chữa cái bệnh kém lý luận, khinh lý luận và lý luận suông”, “chúng ta phải gắng học, đồng thời học thì phải hành”(16).
Nếu bệnh chủ quan thuộc về nhận thức, thì bệnh hẹp hòi thuộc về thái độ
và cách cư xử trong các mối quan hệ trong việc dùng người, mà nhiều cán
bộ, đảng viên thường mắc phải. Bệnh này rất nguy hiểm, trong thì ngăn trở Đảng thống nhất và đoàn kết, ngoài thì nó phá hoại sự đoàn kết toàn dân.
Phê
phán bệnh hẹp hòi, nhất là hẹp hòi trong việc dùng người, cả trong Đảng
lẫn ngoài Đảng, với những biểu hiện khác nhau, Người rút ra nhiều nhận
xét, kết luận thấm thía. “Nhiều thứ bệnh, như chủ nghĩa địa phương, chủ
nghĩa bản vị, chủ nghĩa cá nhân, khuynh hướng tham danh vọng, tham địa
vị, dìm người giỏi, bệnh hủ hóa, v.v., đều do bệnh hẹp hòi mà ra!”, “Vì
ham danh vọng và địa vị, cho nên khi phụ trách một bộ phận nào, thì lôi
người này, kéo người khác, ưa ai thì kéo vào, không ưa thì tìm cách tẩy
ra. Thế là chỉ biết có mình, chỉ biết có bộ phận mình mà quên cả Đảng. Đó là một thứ bệnh hẹp hòi,
trái hẳn với nguyên tắc tập trung và thống nhất của Đảng”, “Cũng vì
bệnh hẹp hòi đó mà cán bộ cấp trên phái đến và cán bộ địa phương không
đoàn kết chặt chẽ”, “không thân mật hợp tác”(17). Và theo Người: “Cũng vì bệnh hẹp hòi mà không biết dùng nhân tài, việc gì cũng ôm lấy hết. Ôm lấy hết thì cố nhiên làm không nổi. Cũng vì bệnh hẹp hòi
mà không biết cách xử trí khôn khéo với các hạng đồng bào. Từ nay, mỗi
cán bộ, mỗi đảng viên, phải kiên quyết chữa cái bệnh hẹp hòi đó để thực
hành chính sách đại đoàn kết. Chính sách thành công thì kháng
chiến mới dễ thắng lợi. Bệnh chủ quan, bệnh ích kỷ, bệnh hẹp hòi, v.v.,
mỗi chứng bệnh là một kẻ địch. Mỗi kẻ địch bên trong là một bạn đồng
minh của kẻ địch bên ngoài. Địch bên ngoài không đáng sợ. Địch bên trong
đáng sợ hơn, vì nó phá hoại từ trong phá ra”(18). Bởi vậy,
“Mỗi cán bộ, mỗi đảng viên, mỗi ngày phải tự kiểm điểm, tự phê bình, tự
sửa chữa như mỗi ngày phải rửa mặt. Được như thế thì trong Đảng sẽ không
có bệnh mà Đảng sẽ mạnh khoẻ vô cùng”(19). Người còn yêu cầu
đội ngũ cán bộ, đảng viên phải chống thói ba hoa, vì thói này, cũng hại
như hai bệnh kia (chủ quan và hẹp hòi): “Vì thói ba hoa còn, tức là
bệnh chủ quan và bệnh hẹp hòi cũng chưa khỏi hẳn”(20).
Trong tác phẩm“Sửa đổi lối làm việc”, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tổng kết từ thực tiễn để rút ra “Mấy điều kinh nghiệm”. Đó là một tổng kết đặc sắc gồm sáu điểm:
- Có cán bộ tốt, việc gì cũng xong.
- Chính sách thì đúng, cách làm thì sai.
- Không biết nghiên cứu kinh nghiệm đến gốc.
- Phải nâng cao sáng kiến và lòng hăng hái.
- Vì ai mà làm? Đối ai phụ trách?
- Sát quần chúng, hợp quần chúng.
Những
tổng kết đó, vừa là những kết luận có tính nguyên lý, vừa tiếp tục nêu
lên những tình huống, nói rõ hạn chế, khuyết điểm phải ra sức khắc phục,
trên tinh thần phê bình xây dựng, rất có ích trong phấn đấu, rèn luyện
của đội ngũ cán bộ, đảng viên. Ở đây, Người đưa ra những chỉ dẫn rất
quan trọng, đó là: “Muôn việc thành công hoặc thất bại, đều do cán bộ
tốt hoặc kém. Đó là một chân lý nhất định”(21); “Dùng cán bộ
không đúng tài năng của họ, cũng là một cớ thất bại”, “Từ nay, công việc
gì bất kỳ thành công hoặc thất bại, chúng ta cần phải nghiên cứu đến
cội rễ, phân tách thật rõ ràng rồi kết luận. Kết luận đó sẽ là cái thìa khóa phát triển công việc và để giúp cho cán bộ tiến tới. Có như thế thì người mới có tài, tài mới có dụng”(22).
Đặc biệt là, Người thẳng thắn phê bình cách lãnh đạo của cán bộ, đảng
viên không được dân chủ, cách công tác của ta không được tích cực. Đây
là một yếu kém phải ra sức sửa chữa, nếu không sẽ ảnh hưởng tai hại tới
sự đoàn kết và sức chiến đấu của Đảng, làm sai lệch đạo đức, nhân cách
của người đảng viên. Theo Người, dân chủ, sáng kiến, hăng hái, ba điều
đó rất quan hệ với nhau; phải làm cho đội ngũ cán bộ, đảng viên hiểu rõ,
“bất kỳ việc gì cũng vì lợi ích của nhân dân mà làm và chịu trách nhiệm
trước nhân dân”(23), phải “Từ trong quần chúng ra. Về sâu trong quần chúng”(24). Đó là tính nhân dân, là quan điểm quần chúng, mà người cách mạng phải thấm nhuần, phải nhất quán từ nhận thức đến hành động.
Xây dựng, chỉnh đốn Đảng với mục đích vì dân và trách
nhiệm cao nhất với nhân dân. Đó là cơ sở, là nền tảng, là mục đích phục
vụ nhân dân của đảng chân chính cách mạng. Một khi giác ngộ điều sâu
xa, căn bản này, thì từng tổ chức đảng, từng cán bộ, đảng viên, phải nêu
cao dũng khí tự phê bình và phê bình, quyết tâm làm cho Đảng thực sự
trong sạch, vững mạnh, sao cho không phụ lòng nhân dân, xứng đáng với
niềm tin của nhân dân đối với Đảng.
Hai
là, phải nêu cao tư cách của đảng chân chính cách mạng, ra sức làm tròn
phận sự của đảng viên và cán bộ, phải dựa vào dân mà xây dựng, chỉnh
đốn Đảng.
Trong
12 điều cần thiết để xây dựng và bảo vệ tư cách của đảng chân chính
cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã làm nổi bật một tư tưởng lớn: Đảng
phải dựa vào dân mà xây dựng Đảng, phải không ngừng củng cố mối liên hệ
mật thiết, bền chặt giữa Đảng với quần chúng nhân dân. Người nhấn mạnh
bản chất, mục đích của Đảng. Đảng không phải là một tổ chức để làm quan,
phát tài. Nó phải làm tròn nhiệm vụ giải phóng dân tộc, làm cho Tổ quốc
giàu mạnh, đồng bào sung sướng. Điều thứ nhất trong 12 điều cần thiết trong xây dựng Đảng liên quan đến động
cơ phấn đấu vào Đảng của mỗi người. Đó cũng là điều hệ trọng nhất, nhất
là khi Đảng đã cầm quyền, thì điều này lại càng vô cùng hệ trọng và
thiêng liêng. Sai lạc về mục đích, động cơ phấn đấu, về lý tưởng và lẽ
sống là khởi đầu dẫn đến suy thoái, biến dạng và hư hỏng. Nêu bật điểm
đầu tiên này, Chủ tịch Hồ Chí Minh thức tỉnh chúng ta về đạo
đức trong chính trị. Ý nghĩa thực tiễn sâu xa của vấn đề này trong xây
dựng, chỉnh đốn Đảng hiện nay là Đảng phải hết sức chú trọng giáo dục
mục đích, động cơ cho những người muốn phấn đấu vào Đảng; đồng thời,
phải thường xuyên kiểm tra, đánh giá đội ngũ cán bộ, đảng viên về lòng
trung thành với lý tưởng của Đảng, về sự tận tụy, hy sinh phục vụ nhân
dân bằng việc làm, bằng hành động, chứ không chỉ căn cứ vào lời nói. Tư
tưởng “dựa vào dân để xây dựng Đảng” được Chủ tịch Hồ Chí Minh làm rõ,
bởi yêu cầu đặt ra của sự nghiệp cách mạng đối với mỗi đảng viên, đối
với sự lãnh đạo của Đảng; phương pháp và phong cách mà Đảng chỉ ra cho
mỗi đảng viên thể hiện trong mối quan hệ mật thiết với quần chúng nhân
dân. Đó là nâng cao hiểu biết về lý luận cách mạng, gắn liền lý luận với
thực hành, thấm nhuần quan điểm thực tiễn khi đặt ra khẩu hiệu và chỉ
thị; thường xuyên xem xét lại tất cả công tác của Đảng, giữ vững nguyên
tắc, liên hợp chặt chẽ với dân chúng, luôn đứng về phía quần chúng, chú
trọng phương pháp (cách thức) tổ chức, giáo dục đảng viên và quần chúng.
Theo đó, Người nhấn mạnh đến việc phải hết sức đề cao bản lĩnh tự phê
bình và phê bình, không che giấu khuyết điểm, không sợ phê bình, giữ
nghiêm kỷ luật, lựa chọn những người rất trung thành, rất hăng hái vào
nhóm trung kiên lãnh đạo; đồng thời, tẩy bỏ những phần tử hủ hóa ra
ngoài để làm cho Đảng trong sạch, vững mạnh.
Theo
Người: “Đảng phải luôn luôn xét lại những nghị quyết và những chỉ thị
của mình đã thi hành thế nào. Nếu không vậy thì những nghị quyết và chỉ
thị đó sẽ hóa ra lời nói suông mà còn hại đến lòng tin cậy của nhân dân
đối với Đảng”(25). Vì vậy, thấm nhuần quan điểm “dựa vào dân
để xây dựng, chỉnh đốn Đảng” của Chủ tịch Hồ Chí Minh hơn lúc nào hết,
Đảng càng phải ra sức vận dụng, thực hiện nhất quán, với tinh thần khoa
học và cách mạng, tôn trọng quyền làm chủ của nhân dân, hết lòng tin cậy
nhân dân, rất mực trung thành và tận tụy phục vụ nhân dân; coi đó là
thước đo về phẩm chất và năng lực của đội ngũ cán bộ, đảng viên, là bảo
đảm vững chắc nhất để Đảng có sức mạnh từ niềm tin, sự gắn bó, sự giúp
đỡ, ủng hộ và bảo vệ Đảng của nhân dân, được Chủ tịch Hồ Chí Minh coi là
bí quyết của thành công.
Nêu
lên 12 điều căn bản đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ ra nội dung toàn diện
của xây dựng, chỉnh đốn Đảng về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và
cán bộ, mà sâu xa là xây dựng Đảng về văn hóa. Quan hệ mật thiết giữa
Đảng với nhân dân, Đảng vì nhân dân, nên nhân dân tin Đảng và theo Đảng
đến cùng. Đó là sức mạnh của Đảng, là văn hóa chính trị của đảng chân
chính cách mạng đang thực thi sứ mệnh lãnh đạo, cầm quyền, làm tất cả vì
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc của Tổ quốc, của dân tộc và của nhân dân.
Lời căn dặn của Người:
“Muốn cho Đảng được vững bền/ Mười hai điều đó chớ quên điều nào”(26), đến nay, vẫn còn nguyên giá trị và ý nghĩa kim chỉ nam hành động của Đảng ta.
Thứ
ba, phải tạo ra những chuyển biến căn bản có tính đột phá về công tác
cán bộ, về đổi mới phương pháp và phong cách lãnh đạo của Đảng, làm cho
Đảng ngang tầm nhiệm vụ, tiêu biểu cho trí tuệ, đạo đức và văn hóa của
dân tộc, của thời đại.
Đại
hội XIII của Đảng nhấn mạnh: “Công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng phải
được triển khai quyết liệt, toàn diện, đồng bộ, thường xuyên cả về chính
trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ”(27); đó là một
chỉnh thể, mà sâu xa là xây dựng Đảng về văn hóa, xây dựng văn hóa trong
Đảng. Muốn làm cho Đảng và cả hệ thống chính trị do Đảng lãnh đạo thực
sự trong sạch, vững mạnh toàn diện, “là đạo đức, là văn minh”, như Chủ
tịch Hồ Chí Minh nói về Đảng, thì toàn Đảng, toàn dân, toàn quân phải ra
sức học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh; coi
đây là một giải pháp chiến lược trong công cuộc xây dựng, chỉnh đốn
Đảng. Tiếp tục đẩy mạnh việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức,
phong cách Hồ Chí Minh cần và phải thực sự trở thành một nhu cầu văn hóa
của mỗi người, mỗi cơ quan, đơn vị, tổ chức trong toàn Đảng, trong cả
nước.
Tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc”
của Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ có giá trị lý luận, mà còn có giá
trị thực tiễn sâu sắc trong việc xây dựng hệ giá trị chuẩn mực cho đội
ngũ cán bộ, đảng viên; trước hết là ở những người lãnh đạo,
theo tinh thần “chức vụ càng cao, càng phải gương mẫu”, ra sức thực hành
trách nhiệm nêu gương cho quần chúng noi theo, làm theo. Một tấm gương
sống còn có giá trị hơn một trăm bài diễn văn tuyên truyền. Từ lâu,
Người đã nói như vậy, cũng như Người đã từng nhấn mạnh, lãnh đạo bằng sự
gương mẫu là cách lãnh đạo tốt nhất, hợp với lòng dân và được lòng dân
nhất. Cán bộ phải thực sự là tinh hoa, không chỉ đủ phẩm chất, năng lực,
tương xứng với yêu cầu, nhiệm vụ, mà còn phải có uy tín trong sự nhìn
nhận, đánh giá của nhân dân, được thừa nhận qua dư luận xã hội.
Vấn
đề cán bộ, công tác cán bộ và chính sách cán bộ, cũng như cách lãnh
đạo, đổi mới phương pháp và phong cách lãnh đạo của Đảng trong điều kiện
Đảng cầm quyền, được Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ dẫn hết sức tỉ mỉ, khoa
học. Nếu thực sự thấm nhuần và thực sự có quyết tâm hành động, lời nói
đi đôi với việc làm, đã nói thì phải làm, đã hứa trước Đảng, trước nhân
dân thì phải thực hiện, không chỉ nêu cao quyết tâm, mà còn giữ trọn tín tâm,
nỗ lực hết mình thực hiện đoàn kết dân chủ và đồng thuận trong Đảng,
trong nhân dân, thì nhất định sẽ tạo ra đột phá về chất lượng đội ngũ
cán bộ, chất lượng tổ chức, “thanh toán” triệt để tình trạng yếu kém kéo dài từ bấy lâu nay về công tác tổ chức, công tác cán bộ.
Chúng
ta cần lĩnh hội những chỉ dẫn của Chủ tịch Hồ Chí Minh về vấn đề cốt
yếu này. Người căn dặn chúng ta, “cán bộ là cái gốc của mọi công việc”
và “huấn luyện cán bộ là công việc gốc của Đảng”(28). Người
không chỉ chú trọng huấn luyện cán bộ, từ huấn luyện nghề nghiệp đến
huấn luyện chính trị, huấn luyện văn hóa, huấn luyện lý luận làm cho cán
bộ có đủ năng lực, có tầm nhìn xa trông rộng, có bản lĩnh sáng tạo và
dám chịu trách nhiệm, mà còn ân cần chỉ dẫn cho chúng ta việc “dạy cán
bộ và dùng cán bộ”, thận trọng trong lựa chọn cán bộ, có cách (phương
pháp) đối với cán bộ cho đúng và cho khéo, sao cho từ phong trào thực
tiễn, mà nảy nở rất nhiều nhân tài; trong đó, có cả “nhân tài ngoài
Đảng”, để Đảng và Chính phủ trọng dụng, vì lợi ích của cách mạng, của
dân tộc và của nhân dân. Chủ tịch Hồ Chí Minh là nhà lãnh đạo, nhà tổ
chức thiên tài, bằng trí tuệ mẫn tiệp, có “tầm mắt đại dương”, lại giàu lòng nhân ái, khoan dung, Người còn nhấn mạnh những điểm lớn trong chính sách cán bộ. Người nói rõ: “Sao cho đối đãi đúng với mọi người? Đó là một vấn đề rất trọng yếu”(29),
bởi nó kích thích được tài năng, tạo ra động lực cho cán bộ phát triển
và cống hiến. Tổng kết của Người là cẩm nang cho cán bộ lãnh đạo trong
việc dùng người gồm năm điểm: “Hiểu biết cán bộ,/ Khéo dùng cán bộ,/ Cất
nhắc cán bộ,/ Thương yêu cán bộ,/ Phê bình cán bộ”(30).
Người nêu lên những quan niệm khoa học thấm sâu tinh thần thực tiễn và
đổi mới, đặc biệt là muốn dùng cán bộ cho đúng, thì người lãnh đạo phải
thực sự có trí tuệ, có đạo đức, thật sự công tâm, khách quan, vì sự
nghiệp chung, vì lợi ích tối cao của nhân dân, của đất nước, mà dùng
người thực đức, thực tài, không thiên tư thiên vị, không định kiến hẹp
hòi; đồng thời, phải có bản lĩnh chính trị dám quyết, dám chịu trách
nhiệm, “Ai sợ phụ trách và không có sáng kiến thì không phải người lãnh
đạo”(31). Chủ tịch Hồ Chí Minh thường xuyên chú trọng công
tác kiểm tra cán bộ, “Giao công việc mà không kiểm tra, đến lúc thất bại
mới chú ý đến. Thế là không biết yêu dấu cán bộ”(32). Cũng
như vậy, kiểm tra, phê bình cán bộ là cần thiết, tất yếu, là thái độ chủ
động trong bảo vệ cán bộ, nghiêm mà vẫn bao dung, thấu lý, đạt tình là
điểm đặc sắc trong phương pháp và phong cách của Người, là chất nhân
văn, chủ nghĩa nhân văn của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Người phê phán nghiêm
khắc những chứng bệnh mà không ít cán bộ lãnh đạo có trọng trách dùng
người, nhưng dùng không đúng thường mắc phải; đó là “Tự cao tự đại,/ Ưa
người ta nịnh mình,/ Do lòng yêu, ghét của mình mà đối với người,/ Đem
một cái khuôn khổ nhất định, chật hẹp mà lắp vào tất cả mọi người khác
nhau”(33).
Người
để lại cho chúng ta những thu hoạch vô cùng bổ ích, chắt lọc và kết
tinh vô vàn những kinh nghiệm và trải nghiệm trong nhiều thập niên hoạt
động cách mạng của mình, thiết nghĩ vào lúc này, những cán bộ lãnh đạo
cần vận dụng, thực hành cho tốt. “Phải trọng nhân tài, trọng cán bộ,
trọng mỗi một người có ích cho công việc chung của chúng ta”(34), “Mình càng ít khuyết điểm thì cách xem xét cán bộ càng đúng”(35),
“Chúng ta không sợ có sai lầm và khuyết điểm, chỉ sợ không chịu cố gắng
sửa chữa sai lầm và khuyết điểm. Và càng sợ những người lãnh đạo không
biết tìm cách đúng để giúp cán bộ sửa chữa sai lầm và khuyết điểm”(36).
Công tác cán bộ gắn liền với công tác tổ chức và ngược lại. Xây dựng,
chỉnh đốn Đảng về tổ chức, về cán bộ có liên quan trực tiếp tới công tác
lãnh đạo và đổi mới phương thức, phong cách lãnh đạo. Đảng phải dày
công trong công tác cán bộ, xây dựng một đội ngũ cán bộ có chất lượng
cao về mọi mặt, đặc biệt là Đảng ta nhấn mạnh vào phẩm chất, năng lực,
uy tín. Trong tác phẩm“Sửa đổi lối làm việc”, những kiến giải
của Chủ tịch Hồ Chí Minh về cách lãnh đạo, có rất nhiều điểm đặc sắc. Độ
lùi của thời gian càng xa, thì những luận điểm của Người càng có sức
tỏa sáng, trở thành những giá trị bền vững - xét về mặt tư tưởng, thấm nhuần triết lý của Người và cả về đạo đức và phong cách, mà ngày nay Đảng ta cần vận dụng và phát triển sáng tạo trong điều kiện mới.
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, lãnh
đạo đúng nghĩa là: “Phải quyết định mọi vấn đề một cách cho đúng”,
“Phải tổ chức sự thi hành cho đúng”, “Phải tổ chức sự kiểm soát, mà muốn
kiểm soát đúng thì cũng phải có quần chúng giúp mới được”(37);
cả ba việc ấy đều cần phải dựa vào nhân dân, có sự giúp đỡ của nhân
dân. Người còn nhấn mạnh: “Muốn kiểm soát có kết quả tốt, phải có hai
điều: một là việc kiểm soát phải có hệ thống, phải thường làm. Hai là
người đi kiểm soát phải là những người rất có uy tín”(38). Để
thực hiện sự lãnh đạo theo quan niệm nêu trên, Người căn dặn chúng ta,
phải liên hợp chính sách chung với sự chỉ đạo riêng; đồng thời, liên
hiệp người lãnh đạo với quần chúng. Lại phải chú ý “vừa lãnh đạo vừa học
tập”, đối với dân chúng phải biết phát huy vai trò của bộ phận quần
chúng tiên tiến, nâng đỡ lớp quần chúng trung bình cho họ tiến bộ, biết
cách thuyết phục, cảm hóa những quần chúng chậm tiến. Người cũng đòi hỏi
phải, “phá tan cách lãnh đạo lờ mờ, quan liêu, chủ quan, bàn giấy”,
“Học hỏi quần chúng nhưng không theo đuôi quần chúng”(39).
Những
chỉ dẫn trên đây của Người là cơ sở để chúng ta rút ra những thu hoạch
về khoa học và nghệ thuật trong lãnh đạo và quản lý; đó là: Lãnh đạo
bằng khoa học, lãnh đạo một cách dân chủ, lãnh đạo bằng sự gương mẫu, tiên phong, nhất là sự gương
mẫu về đạo đức của người lãnh đạo. Còn nhiều vấn đề khác, được Chủ tịch
Hồ Chí Minh đề cập trong tác phẩm quan trọng này, nhưng tất cả đều quy
tụ vào nội dung xây dựng, chỉnh đốn Đảng, vào vai trò của quần chúng
trong việc giúp đỡ, hỗ trợ, ủng hộ Đảng và điều mấu chốt là Đảng phải dựa vào nhân dân, củng cố mối liên hệ bền chặt với nhân dân.
Đó vừa là cơ sở xã hội rộng lớn của Đảng, vừa là nguồn xung lực mạnh
mẽ, giúp Đảng không ngừng phát triển, thực sự trong sạch, vững mạnh,
xứng đáng với trọng trách lãnh đạo, cầm quyền, đưa sự nghiệp cách mạng
tới thắng lợi, vì cuộc sống ấm no, hạnh phúc của nhân dân.
Một số kiến nghị
Một là, nhân kỷ niệm 75 năm Chủ tịch Hồ Chí Minh viết tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc” (và tác phẩm “Đời sống mới”)
- những tác phẩm tiêu biểu cho tư tưởng đổi mới của Người trong điều
kiện Đảng cầm quyền, cần tổ chức giáo dục, tuyên truyền sâu rộng giá trị
và ý nghĩa những tác phẩm này trong Đảng, trong dân; coi đây là một điểm nhấn về lý luận - thực tiễn trong chủ đề “Học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách
Hồ Chí Minh” năm 2022, góp phần tạo động lực thúc đẩy khát vọng cống hiến của mỗi người, khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc của toàn dân tộc.
Hai là,
xuất phát từ tầm vóc tư tưởng, với những giá trị bền vững và phong cách
đặc sắc của Chủ tịch Hồ Chí Minh thể hiện qua tác phẩm, Đảng và Nhà
nước ta cần đưa tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc” vào danh
mục các tác phẩm Bảo vật quốc gia của Chủ tịch Hồ Chí Minh, làm phong
phú và sâu sắc thêm kho tàng di sản các bảo vật quốc gia của Việt Nam.
Ba là, cùng với việc đó, một việc làm cần thiết, cấp bách lúc này là phải đưa “Tuyên ngôn Độc lập” - Bản
tuyên ngôn lập quốc, dựng nước Việt Nam mới, mà cả dân tộc và thế giới
đều biết đến tác giả khởi thảo và tuyên đọc văn kiện vô giá này là Chủ
tịch Hồ Chí Minh vĩ đại, vào danh mục bảo vật quốc gia của Việt Nam.
Việc bổ sung chính thức tác phẩm vĩ đại này là hết sức cần thiết, có ý
nghĩa đặc biệt trong di sản tư tưởng và văn hóa của Việt Nam - Thời đại
Hồ Chí Minh./.