(Thanhuytphcm.vn) - Ngày 8/2/2022, Ban Bí thư đã ban hành Quy định số 57-QĐ/TW về đối tượng, tiêu chuẩn và phân cấp đào tạo lý luận chính trị. Trong phần “giải thích từ ngữ”, Quy định này đã nêu nhiều nội dung khác nhau về việc đào tạo lý luận chính trị, các cấp đào tạo…, trong đó, đều gắn với một yêu cầu rất quan trọng trong công tác này là “vận dụng thực tiễn”. Tức là, trong đào tạo lý luận chính trị, cả phía cơ sở đào tạo, người giảng và người học đều phải gắn chặt lý thuyết với thực tiễn, đồng thời có sự liên hệ, thực hành một số kỹ năng cần thiết.
Thoạt nghe, nói về lý luận chính trị thì không ít người nghĩ đến những vấn đề lý luận, lý thuyết, nguyên lý… một cách khô khan, nặng nề; quá trình đào tạo thường gắn với việc nâng cao kiến thức, nhận thức chính trị, góp phần xây dựng thế giới quan, nhân sinh quan, phương pháp luận khoa học và cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước… Và vì nhìn nhận như thế nên lý luận chính trị được cho là ít thực tiễn, ít thực hành và cũng từ đó dễ đi đến nhận thức là học chỉ để biết chứ không phải học để áp dụng vào thực tiễn, để giải quyết các vấn đề cụ thể trong công tác, đặc biệt là trong quản lý, điều hành…
Trên thực tế, học lý luận chính trị, bên cạnh vấn đề nhận thức còn là vấn đề hoạt động, hành động, kể cả tác nghiệp, thực hành. Để đáp ứng được yêu cầu này, cả phía cơ sở đào tạo, giảng viên và học viên đều phải có tâm thế gắn với thực tiễn một cách cụ thể, sinh động, chủ động.
Về phía cơ sở đào tạo, bám sát các quy định chung của Đảng, cần có khung chương trình đào tạo hợp lý với các môn học, thời lượng, nội dung chặt chẽ, khoa học, gắn với từng cấp đào tạo, từng đối tượng cụ thể... Khung chương trình đó nên “động” và “mở”, tức là có một biên độ nhất định về số môn, số tiết, số chuyên đề, chứ không phải “đóng khung” một cách cứng nhắc. Bởi với từng lớp cho các đối tượng khác nhau có thể cần những môn học, thời lượng khác nhau, trên cơ sở phần “cứng” và phần “mềm”.
Thí dụ, trong chương trình đào tạo trung cấp lý luận chính trị hệ không tập trung, học trong 12 tháng, của một lớp dành cho giáo viên và một lớp dành cho cán bộ công chức khối đảng, đoàn thể cấp phường xã thì bên cạnh phần “cứng” nên có phần “mềm” riêng. Bởi giáo viên hẳn cần một số kiến thức, kỹ năng khác với cán bộ công chức; chẳng hạn, ở nội dung về “dân vận”, đối tượng “dân vận” của giáo viên chủ yếu là học sinh, phụ huynh học sinh, còn đối tượng của cán bộ công chức chủ yếu là người dân; cho nên, bên cạnh những kiến thức chung về dân vận thì từng chủ thể học cần được trang bị thêm về những kiến thức và kỹ năng khác nhau tùy theo đối tượng tác động của chủ thể học theo lĩnh vực công tác của họ. Do vậy, nếu không có phần kiến thức “mở” thì người học công tác ở các lĩnh vực khác nhau được học kiến thức, kỹ năng như nhau thì tính hiệu quả, hấp dẫn, có ích hẳn ít nhiều sẽ không được bảo đảm.
Về phía giảng viên, bên cạnh nắm chắc lý thuyết về từng chuyên đề, họ cần có kiến thức thực tiễn và được cập nhật thường xuyên về các lĩnh vực giảng dạy. Đồng thời, giảng viên phải gợi mở, hướng dẫn cho người học vận dụng một cách hợp lý, linh hoạt các kiến thức đã học được vào giải quyết các vấn đề thực tế. Như ở nội dung về nắm bắt dư luận xã hội, bên cạnh lý giải thế nào là dư luận xã hội, làm sao phân biệt giữa dư luận và tin đồn, cơ chế lây lan, cách thức nắm bắt ra sao… thì giảng viên phải gắn những hiện tượng có thật ở địa phương và dùng lý thuyết để “soi” từng vấn đề cụ thể.
Thí dụ, người dân đang có ý kiến khác nhau về một dự án xây dựng trường học trên địa bàn vốn bị hoãn nhiều năm do có một số người dân khiếu kiện trong quá trình thu hồi đất, vậy trong các ý kiến đó, đâu là dư luận, đâu là ý kiến cá nhân của một số người, đâu là ý kiến dẫn dắt nhận thức sai lệch có dụng ý xấu…; từ đó cần quan tâm vấn đề “điểm nóng”, cách xử lý “điểm nóng”… Như vậy, giảng viên phải có vốn thực tiễn, trên cơ sở đúc kết các sự kiện, hiện tượng có thật, tìm ra phương pháp xử lý phù hợp và khái quát thành các “lời giải” cho những “bài toán” khác nhau, chứ không chỉ cho “công thức” mà không hướng dẫn cách áp dụng như thế nào. Do đó, đòi hỏi giảng viên phải có quan sát, nắm bắt, đúc kết và thực sự có thể vận dụng thành công chính “lời giải” của mình cho các tình huống. Đương nhiên, bản thân người học phải thực sự chủ động vận dụng và phải luôn có tâm thế “học để hành”, “học để làm việc”.
Chẳng hạn, một cán bộ sau lớp cao cấp lý luận chính trị, khi tham mưu đã “chắc tay” hơn, như trong xác định vấn đề trọng tâm, đề ra hướng xử lý, cách diễn đạt đã gãy gọn và thuyết phục hơn… Bởi sau khóa học, người đó đã tìm ra được “chìa khóa” để xử lý các vấn đề, trên cơ sở vận dụng lý thuyết để giải quyết các vấn đề thực tiễn ở địa phương, đơn vị. Tức là, người đó vừa nắm được “công thức” vừa biết áp dụng “công thức” cho từng “dạng toán” khác nhau. Điều này đã vượt qua được sự “cầm tay chỉ việc” như trước khi đi học.
Điều đó đòi hỏi tâm thế tích cực của người học. Đó là học tập nghiêm túc, cả ở việc dự lớp, nghe giảng, đặt câu hỏi, trao đổi, thậm chí tranh luận, phản biện…, đồng thời, biết chọn lọc những nội dung cần tiếp tục đào sâu nhằm phục vụ cho công tác của mình. Đó là khi thực hiện các bài tập, bài kiểm tra, thảo luận… đều có liên hệ thực tế công tác của mình, thay vì chỉ chép lại từ giáo trình, ghi lại từ bài giảng… Đó là có thể thực hành ngay các lý thuyết vừa được học vào công tác thực tiễn của mình, xem nội dung được học có tính “soi đường” cho việc thực hiện các nhiệm vụ cụ thể.
Từ đó có thể thấy, yêu cầu “vận dụng thực tiễn” là một đòi hỏi cần thiết, có ý nghĩa đối với cả người học, người dạy và cơ sở đào tạo lý luận chính trị. Đó là một trong những biểu hiện quan trọng, cụ thể, khẳng định tính hiệu quả, có ích của công tác đào tạo lý luận chính trị. Nhờ vậy mà mỗi người sau khóa học có thể thấy đọng lại những gì thiết thực, bổ ích, thú vị; từ đó, góp phần khắc phục hiện tượng ngại học, lười học, tìm cách thoái thác khi được cử đi học lý luận chính trị… của một bộ phận cán bộ, đảng viên hiện nay.
Trúc Giang